Email của anh gửi cho tôi: Tôi đã đọc bút
ký: “Ngày tháng tả tơi” của cậu! Có phải cậu là Cận, ngày trước bị bắt làm tù
binh trong trận Phước Long đầu năm 1974 đó không. Tôi là Viễn, đã từng ném cậu
lên xe bò năm ấy đây. Nếu khi nào cậu rảnh rỗi hãy ghé nhà tôi chơi và liên lạc
theo số điện thoại sau…
Tôi bàng hoàng xúc động khi đọc mấy dòng
này của anh.
Tôi đang làm biên tập cho một tờ báo của
thành phố Hồ Chí Minh. Anh Viễn là cộng tác viên của báo nhưng lấy bút danh
khác nên tôi không thể ngờ người thường xuyên có tên ký dưới những truyện ngắn
rất hay, lại là người mà ngày còn trai trẻ đã từng cứu tôi thoát khỏi cái chết.
Tôi nôn nao gặp anh ngay, hơn ba mươi năm rồi còn gì. Về nhà, tôi nói cho vợ
con biết là ngày mai tôi sẽ lên Bình Phước để tìm gặp người tôi đã mang
ơn cứu tử, và kể cho vợ con nghe câu chuyện ngày trước của tôi và anh
Viễn.
Vũ, con trai đầu của tôi reo lên:
- Vậy ngày mai ba con mình đi chung nhé!
- Con lên Bình Phước cùng với Hương à?
- Dạ
Tôi cười:
- Vậy là ba khỏi tốn tiền đò xe.
- Chỉ tại ba mẹ không thích đi thôi. Chứ
đi đâu tụi con cũng sẵn sàng bao tất.
Cả nhà cùng cười vui. Hương là bạn gái của
Vũ, nhà bố mẹ Hương ở thị xã Đồng Xoài, tỉnh lỵ của Bình Phước, Hương cùng làm
chung công ty với Vũ.
Hôm sau chúng tôi khởi hành sớm. Rời thành
phố lúc tờ mờ sáng, xe băng qua thị xã Thủ Dầu Một, đến ngã tư Sở Sao quẹo phải
qua đường DT 741. Ngồi trên xe tôi cứ nôn nao, miên man về một nơi tôi sắp đến,
một ân nhân tôi sắp gặp lại sau một thời gian dài biền biệt bặt tin.
Năm 1973, tôi vừa tròn 18 tuổi, vừa thi
rớt tú tài là bị lệnh động viên vào quân đội miền Nam của chính quyền Sài Gòn. Rời
quân trường với bộ mặt non choẹt búng ra sữa, đơn vị tôi tăng cường về phòng thủ
tỉnh Phước Long. Chỉ sau mấy tháng, từ một cậu học trò cắp sách đến trường, tôi
đã biến thành một anh tân binh chân ướt chân ráo lên một tỉnh địa đầu biên giới
chim kêu vượn hú, quanh năm sương mù bao phủ. Những ngày đầu nhớ nhà tưởng
chừng như không thể chịu được, nhiều lần tôi có ý định đào ngũ để trốn về nhà,
nhưng từ đoạn đường 120 km từ nơi tôi đồn trú trở về Bình Dương, quân đội Giải
Phóng đã kiểm soát khu vực Phú Giáo, giao thông vận chuyển chỉ nhờ vào trực
thăng vận. Tôi luôn hoang mang giữa cảnh lính trẻ xa nhà nơi chốn đèo heo hút
gió mịt mù đất đỏ, âm u rừng già. Bố già thường vụ đại đội, nhiều lần nhắc nhở
tôi: Lính tráng gì mà ủy mị suốt ngày ngơ ngơ ngẩn ngẩn như mày thì đánh đấm
với ai được. Mà quả thật là tôi chẳng đánh đấm với ai được cả. Cùng như tất cả
đơn vị phòng thủ tỉnh Phước Long đã tan tác sau 23 ngày đêm bao vây và tiến
quân của các sư đoàn Giải Phóng…
Tiếng của chú tài xế cắt đứt dòng hồi
tưởng của tôi:
- Thưa chú, mình dừng lại nơi đâu để uống
nước nghỉ ngơi ạ?
- Em hãy cho dừng lại nghỉ gần cầu Sông
Bé, tôi muốn nhìn lại cây cầu này.
Cháu Hương tinh ý :
- Bác muốn ngắm lại cây cầu của một thời
đáng nhớ phải không ạ?
Tôi nhìn con dâu tương lai của mình:
- Cháu thông minh thế!
Cây cầu đã gãy nhịp giữa nằm trơ vơ một
bên đường như nhắc ta một thời chiến tranh. Cây cầu này cách đây hơn ba mươi
năm tôi cũng đã từng đi qua, bằng chiếc xe GMC chở trung đội lính mới từ hậu cứ
Bình Dương lên Phước Long. Những chú lính mới tò te không biết nơi dừng chân
của mình đêm nay ở nơi đâu. Những khuôn mặt bơ ngơ báo ngáo quay nhìn hai bên
đường, ngoảnh lại phía sau lưng là mù mù bụi đỏ. Sau lớp bụi mù kia là những
đôi mắt lo lắng, những bàn tay vẫy tiễn đưa của người thân, là phố phường có
những hàng me xanh đơm lá ngoan hiền, là sân trường lung linh chùm phượng đỏ, ánh
mắt của cô bạn gái chung trường hình như cứ dõi theo ở sau cửa lớp hay một góc
hè phố trên đường học trò dấu yêu mỗi bữa đi về…
Xe lại tiếp tục chuyển bánh, tôi nhìn đồng
hồ:
- Khoảng gần một giờ nữa là chúng ta đến
Đồng Xoài đấy.
- Ba ơi! Ba kể thêm về chuyện bác bộ đội
đã cứu ba đi!
- Ừ, ba kể tiếp cho các con nghe nhé:
“…Ngày 06 tháng 1 năm 1974, Giải Phóng
Quân đã chiếm lĩnh hết trận địa Phước Long. Đại đội của tôi ước chừng còn phân
nửa tháo chạy ra rừng để đào thoát. Và khi đến bìa rừng thì chỉ còn lại mấy
mống vì đạn pháo đủ loại đan dày khắp nơi. Bị thương ở chân, tôi không thể đi
đâu xa được, chỉ nằm trong một bụi cây ven bờ suối, nằm một chỗ suốt một ngày
một đêm, đói đến hoa con mắt. Chắc chắn là mình trước sau gì cũng chết vì vết
thương và đói, tôi nằm thu mình trong lùm bụi cây chồi kề bờ suối, mỗi lần khát
là bò lết ra vục nước uống. Đến sáng ngày thứ hai thì tôi đã kiệt sức, không
còn bò ra kiếm nước uống được nữa, mắt lờ đờ nhìn mặt trời phản chiếu dưới đáy
suối. Lạ thay kề một bên vừng thái dương kia là một chiếc mũ tai bèo đang cúi
xuống. Ôi trời! Một anh bộ đội đang lấy nước. Lần đầu tiên tôi mới tiếp cận một
đối phương gần đến thế, khoảng cách rất gần tưởng như mấy xoải tay là
đụng anh ta ngay. Tôi thò tay vào thắt lưng cầm trái lựu đạn cuối cùng. Bất
giác anh bộ đội ngẩng đầu lên cao, khuôn mặt trẻ tươi nghịch ngợm trước màu bạt
ngàn xanh thẩm của rừng. Anh ta còn quá trẻ, quá trẻ như tôi vậy. Bàn tay của
tôi tôi bỗng lơi ra. Tại sao tôi có thể giết chết một người đang hồn nhiên vô
tư dưới ánh nắng ban mai? Cũng như tôi, chàng trai trẻ này chắc cũng còn mẹ già
ngày đêm mong ngóng con về. Chàng trai trẻ này chắc cũng chưa bao giờ dám nắm
tay một người con gái trước khi khoác áo lính. Tại sao tôi có thể khai tử khuôn
mặt ngời tuổi xuân kia, khi anh ta vô tình không hề biết mạng sống của
mình sắp bị tước đoạt bởi một đối phương ẩn núp trong bụi rậm. Tôi là một kẻ
hèn hạ biết bao khi biết trước mình sẽ chết mà còn cố tình đem theo một cái
chết của kẻ khác. Quả lựu đạn vẫn chưa rút chốt, tôi liệng nó qua một bên và
kêu lên:
- Cứu tôi…cứu tôi với!
Anh bộ đội liệng nhanh can nước và chỉa
khẩu AK về phía tôi:
- Ai đó! Bước ra nhanh, không thì bắn bỏ!
- Tôi…sắp… ch…ết.
Nửa mê nửa tỉnh, tôi cứ e sau khi nhìn
thấy sắc phục của tôi, anh ta sẽ cho tôi một viên kẹo đồng vào đầu. Nhưng lạy
trời! Không phải vậy. Sau khi cẩn thận đến gần, xem xét thấy tôi bị thương
thật. Anh bộ đội bỏ đi một lát rồi trở lại cùng các đồng đội với chiếc xe bò,
được trưng dụng của dân làm rừng. Tôi được chở về, anh vội vã băng bó cấp
tốc vết thương và đem cho tôi một cà mèn cơm. Sau này tôi mới biết đơn vị của
anh có nhiệm vụ ém quân vào cánh rừng phía Đông Phước Long để chờ đánh lính Sài
Gòn từ hướng Đồng Xoài có thể đổ lên cứu viện. Đại đội của tôi vừa trốn thoát
ra khỏi Phước Long, đã lọt vào trận địa của các anh. Mấy ngày sau tôi được
chuyển lên xe chung với một số anh em tù binh khác để về tuyến sau. Từ đó chúng
tôi không còn gặp nhau nữa, nhưng tôi cũng đã kịp biết tên anh, cũng đã kịp tìm
cách để từ giã, đưa tấm thẻ bài ghi tên họ của tôi cho anh:
- Tôi còn mạng sống đây là nhờ ơn anh, tôi
không bao giờ quên. Sau này nếu tôi không được về thì nhờ anh giao giùm tấm thẻ
bài này về báo tin cho gia đình tôi.
Anh cười trấn an:
- Chính sách đối xử với tù binh của Mặt
Trận Giải Phóng rất nhân đạo. Anh cứ yên tâm cải tạo tốt, sau này sẽ trở về với
gia đình thôi mà!
Đúng như lời của anh, sau ngày 30 tháng
tư, tôi được trả tự do.”
Mãi mê kể chuyện, xe của chúng tôi đã vào
thị xã lúc nào không hay. Phố xá trở nên sầm uất, con đường chính thênh thang
dẫn vào nội ô rợp cờ hoa. Đã sắp đến ngày kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh. Trước
khi thành thủ phủ của tỉnh, con đường này vẫn còn là đất đỏ, nhà của hai bên
thưa thớt. Không ai có thể ngờ được một thời gian sau đã trở thành phố thị tấp
nập, một sự thay da đổi thịt không chỉ riêng cho Đồng Xoài mà chung cho tất cả
các thị tứ của đất nước thân yêu. Con dốc thoai thoải nghiêng nghiêng. Ánh nắng
vàng tươi trải màu mật vàng óng.
Vũ nhắc tôi:
- Nhà của bác Viễn ở đường nào hả ba? Để
chú tài sẽ đưa ba đến đó trước.
- Đường Phú Riềng Đỏ con ạ.
Vũ reo lên. Ô hay quá, nhà của Hương cũng
ở đường này ba ạ!
Khi nghe tôi đọc số nhà, Hương trố mắt
nhìn tôi:
- Ôi bác ơi! Có phải người mà bác vừa kể
là Hoàng Duy Viễn không?
- Đúng rồi. Mà sao con biết?
- Dạ…Vì…đó là bố của con.
Thật bất ngờ. Tôi xúc động lắp bắp nói
không nên lời:
- Thật thế phải không cháu?
- Thật bác ạ. Cháu nghe bác nhắc đến tên
của bố, cứ ngờ ngợ nhưng không thể ngờ lại có chuyện dun rủi cho bác đã gặp bố
cháu như thế.
Tôi lặng người đi mấy giây. Người ngày xưa
tôi đã thọ ơn sâu, tưởng là không thể gặp nhau nữa. Ai ngờ hơn ba mươi năm sau
lại sắp hội ngộ, và lại sắp trở thành ông sui!
Xe dừng lại, anh Viễn đã đứng sẵn trước
cổng để đón. Tôi dễ nhận ra anh vì dáng dong dỏng cao. Tóc đã bạc hoa râm nhưng
tôi vẫn dễ nhận ra mái tóc cắt ngắn ba phân lộ ra vầng trán kiêu hãnh của anh ngày
nào.
Hương lao xuống xe ôm chầm lấy bố:
- Bố ơi! Bác Cận là ba của anh Vũ đấy!
Đến lượt anh Viễn trố mắt đứng sững sờ.
Tôi nắm lấy tay anh lay mạnh
- Đúng rồi anh Viễn ơi! Tôi chỉ biết cháu
Hương là con của anh, mới đây thôi…mới đây thôi.
Sau phút xúc động, khi trấn tỉnh lại, anh
Viễn cười lên ha hả.
-Ôi ông trời sao khéo sắp đặt, nếu ngày ấy
mà một trong hai chúng ta không kềm chế mà nổ súng thì đâu có được ngày hôm
nay, cậu nhỉ!
Tôi quay lại nhìn Vũ và Hương:
- Như vậy đúng là duyên nợ thật anh nhỉ!
Anh Viễn gật gù:
-
Duyên nợ như đã sắp đặt trước. Chắc là
vậy!
T.Đ.T