Những người cầu thủ của đội bóng ba tôi đã lần lượt qua đời. Bây giờ chỉ
còn lại độc nhất người trung phong. Người ấy không lạ gì với tôi, ông là anh
ruột của tôi, và là con cưng của ba mẹ tôi. Đó là anh Thương. Tình cờ ba tôi
khám phá ra tài năng đá bóng của anh. Trong những trận tranh cúp toàn quốc anh
đã làm say mê các khán giả, ba tôi lại càng cưng chìu anh hơn. Các cầu thủ
trong đội tôn trọng và mến phục anh. Còn riêng tôi, thằng bé sáu tuổi, xem anh
như một thần tượng một thời gian dài của tuổi trẻ.
Hiện tại anh cũng như tôi đã thành những ông già. Tóc đã bạc phơ. Lưng
đã còng. Mắt đã mờ. Răng đã rụng. Anh vẫn thức khuya, nằm trên ghế dựa, say mê
theo dõi những trận bóng đá. Anh quên cả sức khỏe kém cỏi của tuổi già.
Tôi vẫn thường lên thăm anh. Điều làm chúng tôi gần nhau là khi chúng
tôi nhắc lại những kỷ niệm thời xa xưa về những người thân yêu nhất của đời
mình đã khuất bóng. Cha mẹ đã chết. Chị em đã bỏ nước ra đi tạm cư ở nước ngoài
hơn 30 năm vẫn chưa về để anh em chúng tôi đoàn tụ. Những người cầu thủ trong
đội bóng của ba tôi cũng được anh em chúng tôi nhắc tới. Nhờ anh tôi hiểu được
nhiều về họ.
Anh cười móm mém rồi chậm rãi kể lại:
- Nếu không có cái chết của anh Mai - người trung phong tuyệt vời trong
đội banh của ba - thì chẳng bao giờ anh thành cầu thủ. Anh Mai là một thanh
niên cao to. Anh gốc người Nghệ An, sau khi Việt Minh vỡ mặt trận, anh chạy vào
thị xã này. Anh từng là một cầu thủ của đội bóng nổi danh ở Hà Nội. Chính anh
ấy đã truyền đạt lại cho anh những cú sút banh bằng chân trái. Quả bóng bay xa
và xoáy tròn làm thủ môn phía bạn phải chới với. Mỗi buổi sáng hai anh em dậy
thật sớm, chạy bộ vài cây số, kéo ra tận bờ sông. Ở đó, anh Mai huấn luyện cho
anh cách lộn nhào, cách ngã mình, cách phóng người đứng dậy thật nhanh. Rồi bất
ngờ, vào một buổi sáng bọn Tây đổ ập vào nhà bắt anh Mai trước sự ngỡ ngàng của
mọi người. Bọn Tây bảo anh ấy là một trong những người lãnh đạo Việt Minh từ
Bắc chạy vào. Vài ngày sau, bọn Tây mang anh Mai ra bờ sông. Một lọat súng bắn
vào người anh. Để tỏ lòng mến mộ tài năng đá bóng tuyệt vời của anh họ đặc ân
cho Ba được đem xác anh Mai về chôn cất.
Như trong buổi diễn tuồng ở một gánh hát, cô đào chính thình lình ngã
bệnh, không thể hủy buổi diễn, ông bầu luống cuống phải tìm người thay thế. Ở
đội bóng cũng vậy. Ba tôi vừa thương tiếc anh Vĩnh, anh Mai, vừa lo tìm người
thế chân. Anh Tỵ biết được nỗi lo lắng ấy. Anh cười nói với ba tôi:
- Người chú cần tìm ở quanh đây thôi. Sáng mai chú ra sân dự buổi tập
dượt giữa hai đội A và B chú sẽ thấy.
Sáng hôm đó, ba tôi phải ẩn mình ở bụi chuối để theo dõi từng bước chân
của anh Thương và ông lấy làm lạ tuy vóc dáng của anh nhỏ nhắn nhưng lanh lẹ,
dẻo dai, đầy phong độ. Ba tôi thắc mắc sao anh Thương lại có cách sút bóng
tuyệt vời như anh Mai. Anh Thương mới thổ lộ tất cả.
Từ đó ba tôi càng thương và chăm sóc anh Thương nhiều hơn. Một kỷ niệm
làm anh Thương nhớ suốt đời. Như một vở kịch. Trong một chuyến lên Đà Lạt để
tranh giải cúp vô địch toàn miền, trước giờ ra quân lại vắng anh Thương, ông
hỏi ai trong đoàn cũng không biết anh ở đâu. Chị Chi thấy vẻ mặt cau có và
luống cuống của ba tôi nên mới nói:
- Chắc anh Thương trên đường về. Anh ấy biết giờ này chuẩn bị trận đấu
mà.
Thật vậy, anh hối hả trở về khách sạn sau
khi từ giã chị Hằng trong lần đến thăm chị. Anh tìm đến nhà chị, lên dốc, xuống
dốc, quẹo phải, quẹo trái, trèo lên ngọn đồi thông, tuột xuống dưới thung lũng
đầy hoa dã quỳ. Thấy mặt anh, chị Hằng tỏ vẻ giận dỗi vì anh ít viết thư. Anh
phân trần, năn nỉ. Chị mới thông cảm. Anh chị làm lành, cùng nhau đi dạo dưới
rừng thông và anh quên hết mọi việc. Đến lúc chị Hằng hỏi:
- Mấy giờ
tập trung cầu thủ?
Anh hoảng hốt. Chị chỉ đường đi tắt. Anh chạy hổn hển mới về kịp. Ba tôi
hỏi:
- Đi đâu về. Sao lại thở hổn hển và toát mồ hôi vậy?
Chị Chi buột
miệng:
- Đến thăm người yêu mà.
Ba tôi la
hoảng lên:
- Thôi! Hỏng
rồi. Hỏng rồi.
Sẵn cầm trong tay khúc gỗ nhỏ, ông quăng xuống thềm nhà, đụng cạnh bàn
văng ngang chân anh Thương. Anh Thương giả vờ trúng phải chân mình. Ăn vạ. Anh
quỵ xuống, ôm lấy chân suýt xoa làm ba tôi thêm quýnh quáng. Sắp ra trận thi
đấu mà cầu thủ què chân thì còn làm ăn gì được. Ông vội vàng chạy đến, tay chỉ
vào ai đó bảo lấy dầu thoa. Nhìn vẻ mặt tiu nghỉu, lo âu của ông, anh Thương
không nỡ làm ba mình buồn lòng nên anh cười làm lành. Anh nói nhỏ như chỉ đủ
cho ba tôi nghe:
- Suýt trúng
thôi mà.
Ông mới hoàn
hồn, mắng yêu:
- Tổ cha mày
làm tao hết hồn.
Sau này tôi mới hiểu vì sao nghe anh Thương đến thăm người yêu mà ba tôi
tỏ thái độ như vậy. Qui định ba tôi đặt ra cho các cầu thủ bóng đá là để giữ
gìn phong độ và tâm tư thoải mái, thì trước khi ra trận một ngày các cầu thủ
không được gặp người yêu hoặc ngủ chung với vợ mình. Gần vợ thì mất sức. Gặp
người yêu thì hao tâm. Cả sức lực và tinh thần phải hòa hợp với nhau mới tạo
chiến thắng.
Ba tôi nâng niu anh Thương vì anh là con trai đầu lòng mà còn là một cầu
thủ xuất sắc đã mang về vinh quang cho đội bóng của ông.
Còn mẹ tôi, bà không thiết tha gì những chiếc cúp đoạt giải anh Thương
mang về chưng nơi phòng khách nhưng bao nhiêu tình thương bà đều dành hết cho
anh. Bà mong muốn anh sớm lập gia đình để bà có cháu nội bồng bế tưng tiu.
Chính bà gợi ý anh Thương phải gặp chị Hằng ngay khi mới bước chân lên Đà
Lạt. Mẹ chị Hằng là bạn thân của bà. Mỗi
lần bà lên Đà Lạt cùng anh Thương bà đều ghé lại. Thấy anh Thương và chị Hằng
thân thiết nhau hai bà bạn già vui sướng lắm. Chị Hằng học trường Tây nên cách
ăn mặc hợp thời trang. Anh Thương cũng không thua gì. Ra đường lúc nào cũng
quần tây thẳng nếp, áo sơ mi bỏ vào trong và nịt hẳn hoi. Đôi giày anh mang lúc
nào bóng láng. Anh hào hoa, phong nhã. Ngoài bóng đá anh còn chơi cả quần vợt. Chị Hằng cũng thích môn thể thao này.
Chị và anh Thương hay ra sân đánh đôi thành một cặp. Cả nhà tôi ai cũng nghĩ
chị Hằng sớm muộn gì cũng làm dâu ba mẹ tôi. Chị Miên, chị Giỏi, chị Chi đều
thương mến chị Hằng. Ngược lại chị Hằng đối với các chị ấy rất hồn nhiên và gần
gũi. Với mẹ tôi, chị xem như mẹ của mình, nên chị hay nũng nịu. Mẹ tôi cứ khen
chị mãi. Con bé cười có duyên. Hiền lành. Dễ thương. Nết na. Mẹ tôi mong ngày
chị ra trường sẽ cậy người làm mai lên Đà Lạt dạm hỏi chị cho anh Thương. Mọi
người trong gia đình tôi ai cũng tin như vậy nếu như không có sự việc xảy ra
quá đột ngột.
Từ đâu, những tai ương dồn dập đổ lên đầu gia đình chúng tôi. Chị Giỏi
chết. Anh Tỵ bỏ đi. Anh Chín bị tù đầy. Anh Thành vào chiến khu. Ba tôi bị giam
cầm, bị tra tấn dã man. Đội banh sau năm năm lừng lẫy bốn phương giờ rã đám.
Các anh cầu thủ lại lưu lạc phương trời nào xa xăm. Anh Thương cũng bỏ nhà ra
đi.
Thuở nhỏ, tôi ngủ trên tấm phản gõ láng bóng đặt ở một góc phòng của
gian nhà giữa cùng với anh Thương. Anh Thương huýt gió rất hay. Âm thanh êm ái
này đã ru tôi vào giấc ngủ, thế câu hò ngày trước mẹ tôi thường hát ru đưa võng
cho tôi. Một buổi sáng, như thường lệ, gà vừa gáy tôi giật mình thức giấc quay
người qua ôm lấy anh nhưng trống không. Anh Thương bặt tăm từ lúc ấy. Sau này
nhớ lại lời anh nói nhỏ bên tai tôi: “Anh
đi rồi, Bui ngủ với ai?” Tôi chưa kịp trả lời anh đã cất tiếng hát một bản
nhạc buồn.
Vắng anh, mẹ tôi khóc mãi. Nước mắt bà rơi xuống như từng mũi kim châm
vào da thịt tôi. Bà tự trách mình, xem như bà là nguyên nhân gây ra sự ra đi
của anh Thương. Mẹ tôi kể lể: “Sao con
lại giận hờn mẹ như thế. Mẹ chỉ mong con làm một người tình chung thủy. Mẹ rất
ghét kẻ bạc tình.” Mẹ tôi nói như có anh Thương đứng trước mắt bà. Mẹ tôi
ân hận. Chị Miên cũng nhận mình có một phần lỗi.
Thì ra chỉ là một lầm lẫn. Chính chị kéo mẹ tôi từ trong buồng ra xem
anh Thương đang đi với một cô gái về hướng bờ sông. Họ đi sát bên nhau. Chỉ có
tình nhân mới như vậy. Các chị khác lại đổ thêm dầu vào lửa. Mẹ tôi giận anh
Thương. Nếu chị Hằng biết được chị ấy sẽ đau khổ biết bao. Mẹ tôi nghĩ như vậy.
Mẹ tôi la rầy anh Thương như trút đổ nước lên đầu anh. Anh chưa kịp phản ứng,
phân trần. Mẹ tôi la lớn:
- Tao không muốn có thằng con tệ bạc như mày!
Chưa bao giờ tôi thấy mẹ tôi giận hờn, la mắng anh Thương như thế. Lúc
đó, thằng bé tám tuổi như tôi, thấy đó làm ngạc nhiên và xem như anh Thương có
tội quá lớn làm mẹ tôi đau lòng.
Trước đó, tôi thấy mẹ tôi lúc nào cũng chìu chuộng anh Thương. Anh muốn
gì mẹ tôi cũng gật đầu ưng thuận. Ngay những lúc nghỉ trưa, mọi người trong nhà
đều im tiếng để mẹ tôi chìm đắm trong giấc ngủ dù ngắn ngủi, thế mà nhiều khi
hứng khởi anh Thương kéo tôi ra cái sân nhỏ lát gạch trước phòng mẹ tôi cùng
anh chơi banh. Anh lừa banh và tôi nhào vô chụp lấy, trái banh nơi chân anh đảo
qua đảo lại, chạy tới chạy lui. Tôi đã thấm mệt, mồ hôi nhễ nhại mà cũng chẳng
lấy được banh. Tôi muốn khóc anh mới bảo tôi làm thủ môn, và anh sút nhẹ trái
banh vào người tôi. Tôi chụp lấy nhưng bị ngã ngửa xuống sân vì sức mạnh đường
đi trái banh còn tôi thì quá yếu ớt. Tiếng chân người. Tiếng nện thình thình
của trái banh lên nền nhà, vào cánh cửa gỗ của phòng mẹ tôi ầm ầm. Anh em tôi
quên trong đó Mẹ tôi đang ngủ. Chị Miên lên tiếng nhắc nhủ:
- Bộ anh hết chỗ tập dượt và thiếu người hay sao? Để mẹ ngủ chứ?
Tiếng mẹ tôi
vọng ra:
- Cứ để anh
Thương mày chơi thoải mái.
Chị Miên nguýt dài, anh em tôi mới ngừng cuộc chơi.
Lúc ấy, tôi nghĩ anh Thương đâu phạm lỗi lầm gì khi đi chơi với bạn gái
khác đến nỗi mẹ tôi phải giận anh đến như thế. Và sao anh Thương vì lời mắng mỏ
của mẹ mình mà phải bỏ nhà ra đi.
Mấy ngày sau, chính người con gái xa lạ kia đến tìm mẹ tôi. Họ nói nhỏ
với nhau điều gì ở trong phòng riêng của mẹ. Khi ra về, mẹ tôi cầm lấy tay cô
gái, nói khẽ câu xin lỗi. Lớn lên tôi mới biết đó là người giao liên, móc nối
dẫn đường cho anh Thương vào chiến khu chống Pháp. Mẹ tôi không còn dằn vặt khi
biết sự ra đi của anh Thương đã được tính toán từ lâu. Bà chỉ lo lắng liệu anh
Thương có chịu nỗi sự khổ cực thiếu thốn nơi rừng rú âm u kia không. Sự an toàn
tính mạng của anh treo như sợi tóc mong manh. Bà chỉ biết hằng đêm niệm Phật.
Từ đó, gia đình tôi thường bị chính quyền hạch xách liên tục. Mẹ tôi
phải tìm tòi những hình ảnh thư từ của anh Thương để lại cất giấu đi.
*
Để gánh vác nuôi nấng chị em tôi cũng như cháu bên nội bên ngọai mà ba
mẹ tôi đã đem về, mẹ tôi phải cật lực tháo vác trong việc làm ăn buôn bán.
Những chuyến hàng ra Trung bằng đường thủy. Những kiện hàng nhập về từ Sài Gòn
bằng xe tải. Nhà trước nhà sau chất đầy hàng hóa. Mẹ tôi càng ngày càng làm ăn
khắm khá rồi giàu có nhất nhì trong thị xã.
Tiền bạc sổ sách bà giao cho chị Miên trông coi cho đến lúc chị lấy
chồng đi xa. Đến phiên chị Muội thì tôi cũng đến tuổi biết nhìn gái đẹp. Còn
chị vừa đến tuổi cập kê. Tất cả của cải vàng bạc vật quí đều cất vào tủ két
bằng sắt.
Nhớ ngày đầu mới mang cái tủ két bằng sắt này từ Sài Gòn về, chị em tôi
đã nhìn nó với vẻ ngỡ ngàng và xa lạ. Lần đầu tiên tôi mới thấy một cái tủ
không phải bằng gỗ xinh xắn nhỏ nhắn như chiếc tủ đặt ở góc tường. Cái két sắt
cũng nhỏ như thế nhưng sao nó nặng nề vô cùng. Phải đến sáu người lớn kê vai
mới nhắc nổi và còng lưng hạ nó xuống đặt vào vị trí mẹ tôi đã định sẵn. Tôi
đưa đôi bàn tay nhỏ nhắn sờ mó lên mặt cái két. Lạnh ngắt. Tôi lấy hết sức lực
bình sinh đẩy mạnh, nó vẫn trơ trơ. Cả cái khối sắt màu xanh đen lù lù ở một
góc phòng như một khối đá nằm trơ vơ dưới chân một ngọn đồi trên đường xuống
biển ở quê tôi.
Mở những chiếc tủ gỗ trong nhà đơn giản chỉ cần nắm cái tay cầm kéo ra
hoặc tra chìa khóa vào ổ khóa xoay qua xoay lại là xong. Còn cánh cửa cái két
sắt này gắn thêm bốn cái núm tròn nhỏ như những đồng xu chồng chất lên nhau,
xung quanh nó là những con số và những ký tự la tinh.
Mẹ tôi phải nhiều lần kêu chị Muội vào phòng để chỉ chị cách sử dụng.
Chị phải lấy một cuốn vở ghi chép. Mẹ bảo như thế không bảo mật. Phải ghi vào
trí nhớ. Chị không tin vào đó vì chị thường quên. Chị nói cho mẹ yên lòng. Con
ghi chép theo cách của con.
Thời gian qua đi, chúng tôi cũng
lìa xa ngôi nhà thân yêu đó, xa cái thị trấn bé nhỏ ấy đến sinh sống ở một
thành phố khác. Mỗi lần nhớ đến cái két sắt này tôi lại xót xa.
Mọi vật dụng trong nhà tôi lúc bấy giờ chỉ do mẹ tôi mua sắm. Từ chiếc
bàn, chiếc ghế, cái tủ thờ, bộ ghế sa lông bằng gỗ gõ láng bóng. Riêng ba tôi,
một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, một chiếc xe ba gát chở về nhà một chiếc tủ gỗ
to lớn, cồng kềnh. Ba tôi bảo quà tặng của một nhà mạnh thường quân giàu có cho
ông bầu đội bóng.
Chiếc tủ này đặt ở căn nhà giữa.
Bao nhiêu quần áo đã ủi thẳng nếp đều được sắp xếp trong ngăn tủ lớn. Bên cạnh
là ngăn tủ ngắn hơn, và trên đó có cái hộc nhỏ gắn liền với tấm gương soi mặt.
Chiếc hộc này đã khóa kỹ. Tôi nghĩ chắc ba tôi dùng để cất những vật quí giá,
nên tôi không dám rờ vào.
Khi ba tôi chết đi sau những tháng năm vật lộn với cơn bệnh lao phổi,
những vật dụng của ba tôi trong chiếc tủ này được lấy ra để thiêu hủy. Riêng
cái hộc nhỏ này tôi không mở được vì không tìm ra chiếc chìa khóa. Mãi sau này
chị Muội nhắc lại mẹ tôi đã từng dặn dò trước khi bà chết, lúc nào anh Thương
trở về mới giao chiếc chìa khóa bà để trong ngăn nhỏ của cái két sắt cũng được
khóa kín. Chính cái chìa khóa đó mới mở được cái hộc tủ gỗ.
Chúng tôi đợi chờ ngày anh Thương trở về, như ba mẹ tôi đều tưởng rằng
chỉ vài năm sau theo hiệp định Genève đất nước sẽ thống nhất. Đâu ngờ lịch sử
đã đổi thay. Cuộc chiến đôi miền càng ngày càng khốc liệt. Ba mẹ tôi phải điêu
đứng, tù tội chỉ đơn giản là có con theo Việt Minh và đã tập kết ra Bắc. Mòn
mỏi.
Từ ngày mẹ tôi mất đã hơn mười năm, chúng tôi mới trưởng thành và tản
mác khắp nơi. Đi đâu rồi cũng trở về lại nơi mình đã được sinh ra. Ngôi nhà
mang số 11 lại được chỉnh trang để thành một quán cà phê văn nghệ. Chị Muội và
tôi đã bán những vật dụng cồng kềnh để trống chỗ. Trước khi chiếc tủ gõ đó được
đổi chủ chị em tôi mới tìm cách mở cái hộc nhỏ để lấy ra những gì mà mẹ tôi đã
cất giấu.
Bấy giờ tôi mới sực nhớ đến chiếc chìa khóa nhỏ để trong cái két sắt.
Hai chị em tôi bàn bạc sẽ dời vật quí giá đó vào một nơi khác, như vừa qua
chúng tôi đã dời những ngôi mộ của ba mẹ cùng người thân trong dòng họ từ một
nghĩa trang trong thị xã ra đến một vùng đồi núi khác.
Cầm chiếc chìa khóa nhỏ tra vào ổ hộc tủ tôi bỗng run tay, lòng hồi hộp.
Vặn mãi mới mở được. Kéo cái hộc tủ từ từ ra. Mắt tôi chăm bẩm nhìn vào. Như
một người vừa tìm ra kho báu mong thấy vàng bạc, ngọc ngà, để cất tiếng reo
mừng. Mẹ tôi đã cất giấu vật gì quí giá đến thế. Trước mắt tôi, trong chiếc hộc
tủ nhỏ này, chỉ là một tập vở học trò. Tôi nghĩ chắc đó là di chúc mẹ tôi để
lại cho anh Thương. Tôi tò mò lấy ra, mở từng trang một. Những dòng chữ viết
rất đẹp và bay bướm về những bản nhạc của Đặng Thế Phong, Văn Cao, Đoàn Chuẩn,
Hoàng Quí… Dưới mỗi bài có ký tên người chép: Thương. Ngoài ra không có một
dòng chữ nào của mẹ tôi. Rủ tập vở, rơi ra một tấm hình. Người con gái trong đó
có đôi mắt trầm buồn. Chị Hằng. Phía sau có hàng chữ viết tặng anh Thương cùng
những lời hẹn hò. Một lá thư viết dở dang của anh Thương chưa kịp gởi cho chị,
nhắn nhủ chị đợi ngày anh về.
Lúc đó trong tôi có một sự ganh tỵ với anh Thương. Những gì anh Thương
bỏ sót lại, một tập vở chép nhạc mà mẹ tôi cũng cất giữ cho anh như một vật quí
giá ngàn vàng. Tấm hình của chị Hằng đã hoen ố theo thời gian. Trong tâm khảm
của mẹ tôi, chị Hằng trẻ đẹp, hiền từ, mẹ tôi vẫn nghĩ đó là người con dâu yêu
quí của bà.
Tôi đóng mạnh chiếc hộc tủ vào. Tôi muốn vất tập vở chép nhạc đó xuống
đất, nhưng không hiểu sao như có bàn tay ai níu lại, ngăn cản tôi. Có tiếng ai
đó rất mơ hồ từ một cõi xa xăm nào đó gọi tên tôi, như nhắc nhủ tôi tránh phải
một sai lầm. Tôi nhận ra tiếng gọi của mẹ tôi ngày nào mình còn thơ ấu khi bà
muốn can ngăn những lỗi lầm tôi sắp phạm tới. Tiếng gọi ấy làm tôi nghĩ không
phải tôi đang cầm trong tay một tập vở chép nhạc của anh Thương mà tôi đang giữ
cái hồn của mẹ tôi. Tôi tìm một tờ giấy trắng gói cẩn thận tập vở lại bỏ vào
ngăn kéo bàn giấy thường ngày tôi làm việc. Như tôi vừa mới nhận lời sẽ thực
hiện lời trối trăn của mẹ tôi.
Thời gian trôi qua. Tôi cũng quên tập vở chép nhạc ấy. Những bản nhạc mà
anh Thương chép lại để tặng chị Hằng, suốt cả khoảng thời gian của tuổi thanh
xuân tôi cũng đã từng đắm hồn mình vào từng lời ca ý nhạc đó. Cho đến tuổi già,
héo hon, tôi vẫn còn rung động.
Người đầu tiên làm cho tôi cảm nhận được cái hồn của bản nhạc là mẹ tôi.
Có những buổi chiều, trời ráng
nắng, những đám mây màu vàng, mảnh như dòng sông kéo dài, vắt qua mặt trời ửng
đỏ. Tôi từ bờ sông Dinh trở về nhà. Giọng hát réo rắt hòa lẫn tiếng đàn du
dương từ phòng mẹ tôi vọng lên, vun vút dội vào hồn tôi. Tiếng còi trong sương đêm. Tôi bước từng bước chân nhẹ nhàng. Đến
phòng mẹ, nhìn qua khung cửa sổ, hình ảnh một người đàn bà tuổi trung niên đang
ngồi dựa ngữa vào chiếc ghế mây, mắt nhắm lại và môi mắp mấy, hát theo tiếng
hát phát ra từ cái máy quay dĩa mà mẹ tôi đã mua về từ mấy ngày trước. Tôi
không dám lên tiếng, lẳng lặng ngồi trên cái phản gỗ gian nhà giữa, mà hồn mình
bay lơ lửng, đến tận những chân trời nào đó. “Nhà em bên chiếc cầu soi nước. Tôi
đến thăm một lần…” “Đêm nay thu sang
cùng heo may.” Tiếng hát đã ngừng mà bên tai tôi, mơ hồ, hình như sao có
tiếng rơi rất khẽ giọt nước mắt của ai đó. Tiếng nấc bật lên. Nghẹn ngào. Rồi
chìm lỉm vào không gian bất tận.
Cũng từ đó, mẹ tôi mỗi lần về sau chuyến đi buôn ở Sài Gòn bà thường
mang về những chiếc đĩa hát, với giọng hát cao vút và truyền cảm của các ca sĩ
danh tiếng đã làm rung động tâm hồn tôi.
Mẹ tôi, mua những đĩa hát thu hầu hết những bài ca anh Thương chép lại trong
cuốn vở. Và cả mẹ tôi và tôi cứ mỗi buổi tối trước khi đi ngủ đều thả hồn mình
theo tiếng hát. Những nỗi buồn không tên, những niềm mong nhớ mông lung của
tuổi mới lớn làm lòng tôi xao xuyến. Còn Mẹ tôi, bà gởi tâm sự mình vào đó cho
ai? Nỗi ray rứt. Chờ đợi. Nhớ thương. Đến cuối đời, nằm trên giường bệnh, mẹ
tôi bảo tôi để cho bà nghe những bản nhạc ấy. Bà thiếp đi. Trong cơn hôn mê mẹ
tôi cứ lẩm bẩm: “Sao chưa thấy thằng
Thương trở về?” – “Mà mày nhớ dẫn con Hằng về nữa nhé, con dâu của mẹ!”. Có
lúc mẹ tôi nắm lấy tay tôi, thảng thốt: “Thương,
con đừng đi nữa nhé!” Mẹ tôi cười mếu máo: “Mẹ phải nhốt cả hai đứa mày trong căn phòng nhỏ xíu. Chật chội lắm
phải không? Nhưng ấm cúng, con ạ! Cái hộc tủ.”
Lúc tỉnh táo, mẹ tôi nhắn nhủ: “Một
mai khi hòa bình anh Thương trở về con mở cái hộc tủ ra.”
Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, anh Thương mới trở về. Gia đình chúng tôi
đã tản mác. Các chị và em tôi đều di tản ra nước ngoài. Ba mẹ tôi không còn
nữa. Anh Thương cứ đinh ninh ngày mình trở về, mọi người còn sống đầy đủ, gia
đình đều đoàn tụ trong ngôi nhà số 11 này. Anh sửng sốt mới biết tin mẹ tôi đã
qua đời trong cơn bệnh nan y. Tôi mang ra tập vở chép nhạc đã được gói kín giao
lại cho anh với giọng nói run run tràn đầy cảm xúc:
- Của mẹ bảo
em giao lại cho anh.
Anh ngạc
nhiên trố mắt nhìn tôi, hỏi:
- Cái gì
thế?
- Anh cứ mở
ra xem thì biết.
Anh Thương xé vội phong bì, tập vở chép nhạc rơi ra. Tôi đưa mắt theo
dõi anh. Tôi cứ nghĩ là anh sẽ cảm động khi nhận ra tập vở này. Anh lật từng
trang giấy, mặt lạnh lùng, vẻ bực bội hiện lên trong đôi mắt đỏ bừng. Anh hỏi
lại tôi với giọng nói cay cú:
- Của ai vậy, chép toàn những bản nhạc lãng mạn không ra gì?
Tôi như bị ai cầm dao đâm vào tim mình, đau nhói, tôi cố lấy bình tĩnh
trả lời anh:
- Chẳng lẽ anh không nhận ra chữ viết của mình sao?
Anh cau mày, thú nhận bằng cách gật đầu. Anh lại hỏi tôi:
- Mà mẹ giữ nó lại làm gì? Sao không hủy đi những thứ nhạc vớ vẩn này.
Lúc này tôi giận anh vô cùng. Tay chân
tôi run lên. Máu trong cơ thể tôi chạy rân rân. Anh Thương vất tập vở chép nhạc
đó xuống đất. Tôi, hình như nghe ra tiếng kêu, từ một cõi xa xôi nào đó, vọng
vào tim mình. Thảng thốt. Rên rỉ. Đau đớn. Khuôn mặt buồn phiền, thất vọng. Đôi
mắt ngẩn ngơ. Rớm lệ. Từng giọt nước mắt rơi xuống. Của mẹ tôi. Theo từng trang
giấy lật tung lên. Những tiếng hát du dương từ những lời chép tay trong tập vở
đó như những làn sóng từ ngoài khơi biển cả mênh mông cuồn cuộn vỗ vào bờ cát
trắng. Ầm ầm. Sóng bỗng lên cao, cao vút, đập vào bờ phá tan tất cả những hàng
dương đã từng vi vút reo lên như tiếng sáo hòa cùng âm điệu rì rào muôn đời của
biển cả. Mẹ tôi bước đi, xiêu vẹo, khập khểnh. Mẹ tôi vấp ngã. Cả thân hình
tiều tụy ập lên tập vở đó. Tôi chạy đến nâng mẹ lên. Tôi cầm tập vở, như tôi cầm lấy tay mẹ. Lạnh ngắt. Bóng tối
từ bên ngoài tràn vào. Mẹ tôi tan biến, hòa nhập vào tập vở chép nhạc.
Đến lúc này tôi không muốn kể cho anh Thương biết vì sao cả chị Miên, em
Ngân và tôi đều thích nghe những bài ca mà hầu hết anh Thương đã chép lại trong
tập vở này. Những giòng chữ nghiêng nghiêng và bay bướm của anh đã làm mẹ tôi
rơi nước mắt nhỏ xuống làm hoen ố một vài con chữ. Mẹ tôi tập hát. Giọng bà run
run. Thu đi cho lá vàng rơi… Ai lướt đi
ngoài sương gió… Ngân hát hay. Giọng ca thánh thót, truyền cảm cũng nhờ
nghe từ máy quay đĩa mà Mẹ tôi mua về đặt trên chiếc bàn nhỏ nơi đầu giường. Thường,
vào buổi chiều tôi cùng mẹ đều ngồi trầm ngâm lắng nghe tiếng hát của nữ ca sĩ
Minh Trang, giọng hát ngọt ngào đưa tôi vào những miền đất hoang vu.
Lớn lên khi tôi biết yêu, tôi cũng nắn nót kẻ từng giòng nhạc những bản
tình ca. Dư âm. Em đến thăm anh một chiều
mưa. Buồn tàn thu…Không phải vào tập vở như anh Thương, mà vào phía sau tấm
ảnh thiệp xuân, chữ nhỏ xíu, cả đêm bỏ học bài, ngồi cong lưng, cố gắng kẻ
những nốt nhạc từng bản một, để sáng mai đem tặng cho T. Sau này, hơn ba mươi
năm gặp nhau lại T. cho biết nàng vẫn còn giữ để kỷ niệm cho mối tình đầu đời.
Trong những tháng năm đầu, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bao nhiêu tai
ương, khổ đau đập xuống đầu chúng tôi, anh Thương như một cái phao để chúng tôi
níu lấy. Những buổi tối anh tụ họp mọi người trong gia đình ngồi quanh trên tấm
phản gỗ để nghe anh phổ biến những tin tức quan trọng trong nước và phê bình
những điều mà anh cho là chúng tôi phạm sai lầm.
Anh bảo tôi phải lột xác, đồ tiểu tư sản. Phải lao động sản xuất. Phải
đốt hết các lọai sách báo của miền Nam. Toàn văn hóa phản động! Vứt đi
những dĩa nhạc ủy mị. Xóa hết những tàn tích của chế độ Mỹ ngụy để lại trước
khi chiến dịch chống văn hóa đồi trụy sắp diễn ra. Anh muốn gia đình tôi là một
gia đình gương mẫu vì có người thân là quân giải phóng đang ở trong nhà.
Trong thời gian anh chờ đợi lệnh thuyên chuyển về Nam anh đã thu
xếp trước cho vợ mình từ Bắc vào công tác ở thị xã nhỏ bé này. Lúc đầu tôi gặp
mặt chị, tôi xót xa vì đôi mắt chị hoằn sâu, thân hình chị tiều tụy, nước da
xanh mét. Chị luộm thuộm trong bộ đồ cũ mèm, chiếc áo thun trắng đã ngã màu, hoen
ố. Tôi không thể nghĩ chị tuổi ở đôi mươi. Anh Thương nói nhỏ với tôi: “Ngoài nớ nghèo lắm.” Từ từ rồi chị cũng
thay da đổi thịt. Cách ăn mặc đã khác đi. Trông chị xinh xắn hơn xưa rất nhiều.
Chị đã lột xác.
Ngược lại chúng tôi như con tàu đang tuột dốc, xác xơ. Cuộc sống khó
khăn dồn chúng tôi vào ngõ cụt. Để giữ tinh thần sau những giờ phút lao động,
để kiếm sống tôi vẫn thường thức dậy sớm pha cho mình một cốc cà phê đậm, hút
một điếu thuốc thơm, nghe lén vài bản nhạc từ cái casette cũ mèm.
Tưởng không ai biết. Nào ngờ,
trong buổi họp mặt gia đình, anh Thương chỉ trích tôi và cho biết quần chúng đã
phản ảnh là tôi còn mang tư tưởng của giai cấp “tiểu tư sản”. Thật tình tôi
không hình dung nổi tiểu tư sản là gì? Trong tôi không có phân biệt giai cấp gì
cả. Người giàu, kẻ nghèo. Chỉ có người tốt, người xấu. Mà tốt hay xấu đều do
nơi hoàn cảnh sinh ra. Thế thôi. Tôi thắc mắc hỏi anh: “Quần chúng là ai?” Anh
chỉ tay vợ anh đang đứng bên cạnh. Đến lúc này thì tôi giật mình. Một cơn gió
mạnh như vũ bão thổi vào tim tôi. Lạnh buốt và xô tôi ngã xuống vực sâu.
Mấy ngày sau đó, tôi dẫn vợ con rời ngôi nhà thân yêu đến một vùng quê
xa lạ. Ở đây chúng tôi cũng đã sống gần mười lăm năm như những người nông dân.
Sau này chúng tôi mới kéo nhau vào sinh sống ở Sài Gòn. Anh Thương đổi vào đây
trước tôi vài năm. Đời sống của gia đình anh đã trở nên giàu sang.
Cuối đời anh Thương mang chứng bệnh nan y, như mẹ tôi ngày trước. Ung
thư. Tôi vẫn thường vào thăm anh ở bệnh viện. Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm
ngày xa xưa. Khi tôi hỏi sao khi ra ngoài Bắc anh không còn chơi bóng đá. Anh
thều thào: Tiếc là những tháng năm ở liên khu 5 anh bị bệnh sốt rét, mất sức.
Bỏ cuộc. Tôi kể cho anh nghe: “Mẹ tôi suýt đi tù vì lý do viện cớ qua Campuchia
để gặp mặt anh. Bà nghe tin từ đâu là anh có chân trong đội bóng Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa tranh giải Bóng đá Đông Dương. Chính quyền không cấp giấy thông hành.
Họ nghi ngờ anh Thương là cầu thủ lừng danh ngoài Bắc.” Thực ra, thời gian đó
anh Thương được vào đại học xây dựng. Anh chỉ là khán giả đi xem bóng đá mà
thôi. Ngoài Bắc không ai biết anh đã từng là một cầu thủ lừng danh của miền Nam. Ở Sài Gòn,
những tờ báo thể thao khi nói đến bóng đá người ta nhắc nhiều về anh. Vang bóng
một thời.
Ngồi ở chiếc ghế đá trước hành lang bệnh viện, dưới gốc cây cổ thụ, lác
đác vài chiếc lá vàng rơi xuống sân cỏ công viên. Hai ông già nhắc lại những kỷ
niệm về người mẹ đã khuất. Những lần trước thì tôi mang cảm giác mình nhỏ lại
như hồi còn ấu thơ đang bơ vơ ngơ ngác lạc loài giữa phố chợ, đến tuổi trưởng
thành, ngày cưới vợ mình dâng trầu cho người đã sinh ra vợ mình, còn tôi ngẩn
ngơ cầm khay trầu rượu như muốn tìm ai đó.
Lần này, linh cảm như một mất mát sắp xảy đến với anh em chúng tôi. Nhắc
đến người mẹ tôi không thấy mình nhỏ lại mà nhận ra anh em chúng tôi là hai ông
cụ già cháu chắt đầy đàn vẫn là những kẻ mồ côi mẹ. Còn người mẹ đã khuất lại
là người thiếu phụ tuổi chỉ 50.
Bỗng dưng, anh Thương đưa bàn tay gân guốc chỉ còn bọc da, lạnh ngắt,
hỏi tôi:
- Cái đó đâu
rồi?
Tôi ngơ ngác. Tôi nhìn anh sững sờ. Tiếng hát từ đâu vọng lại. Nhà em bên chiếc cầu soi bóng. Anh đến thăm
một lần…Tôi vừa nhận ra ý anh nhưng tôi vẫn giả vờ không hiểu, hỏi lại:
- Cái gì?
Đêm nay thu sang cùng heo may…Tiếng hát
trầm ấm, khàn khàn của Khánh Ly như đang dẫn dắt anh Thương trở về một nơi mộng
mơ xa xôi nào đó.
Một giọt nước mắt nóng hổi của anh rơi xuống vai tôi. Rồi tiếng nấc
nghẹn ngào từng hồi tuôn ra.
Cuối cùng môi anh mấp máy:
- Tập vở
chép nhạc ngày ấy…
NGUYÊN MINH