Home » Archives for tháng 12 2022
Ảnh từ Pinterest |
Tác giả: Ngưỡng Nhạc
[ChanhKien.org]
Điêu Thuyền là một trong tứ đại mỹ nhân nổi danh trong lịch sử Trung Quốc. Mặc dù trong chính sử gần như không thể tìm ra ghi chép nào về Điêu Thuyền, nhưng trong các câu chuyện dân gian và các tác phẩm văn học lịch sử lại có khá nhiều câu chuyện liên quan đến nhân vật này. Đại đa số đều cho rằng cô là một người con gái xinh đẹp, đáng thương, xảo quyệt. Tuy nhiên lại không chú ý đến quá trình cô tận trung với nước, tận hiếu với cha…
Bé gái trong am ni cô
Vào cuối những năm Đông Hán, bên ngoài thành Lạc Dương có một am ni cô ít người biết đến. Vào một đêm gió tuyết, một tiểu ni cô đi ra ngoài am và phát hiện một bé gái được bọc trong một tấm da chồn, thấy vậy ni cô liền ôm bé gái vào trong am. Am chủ thấy bé gái trông rất đáng yêu, liền giữ lại nuôi dưỡng. Vì tiếng khóc của bé gái nghe rất đinh tai như thể tiếng ve sầu kêu, lại được bọc trong tấm da chồn, nên vị am chủ liền đặt cho cô cái tên “Điêu Thuyền” (“Điêu” là con chồn, “Thuyền” là con ve)
Tiểu Điêu Thuyền thông minh lanh lợi, lúc ba tuổi đã biết múa hát. Một hôm, phu nhân của quan Tư Đồ Vương Doãn vừa hay đến cúng Quan Âm tại am ni cô để cầu tự, nhìn thấy tiểu Điêu Thuyền đáng yêu lanh lợi, bà vô cùng thích thú ôm cô bé vào lòng chơi đùa. Bà hỏi vị am chủ: ”Cô bé là con nhà ai vậy?”
Am chủ trả lời: “Đứa trẻ này là cô nhi, được am ni cô nhận nuôi từ nhỏ, sau cũng muốn tìm cho nó một nơi chốn khác. Nếu phu nhân yêu mến cô bé, hay là nhận về làm nha hoàn bên cạnh mình để sai bảo”.
Vương phu nhân nghe thấy vậy, thật không cầu mà được, liền vội sai quản gia đem 100 lượng bạc đến cảm tạ am chủ, rồi đưa Điêu Thuyền về phủ. Về đến phủ, Vương Doãn cũng rất vui mừng, ông thấy Điêu Thuyền khí chất siêu phàm, liền đích thân dạy cô đọc kinh sử, giúp cô hiểu được đạo lý đối nhân xử thế, còn tìm thầy dạy nhạc và vũ đạo cho cô. Điêu Thuyền thiên chất thông minh, vừa học đã biết. Thấm thoắt đã mười mấy năm, dù là ca múa đàn hát, ngâm thơ đối ứng, Điêu Thuyền đều thành thạo, cô cũng thường hay đi cùng phu nhân đến am ni cô thuở đầu để tham bái lễ Phật, cảm tạ ơn cứu mạng của am chủ năm đó; nếu được thưởng hoặc được tặng thêm tài vật đều sẽ tăng thêm tiền nhang dầu khi đến lễ Phật.
Khi trưởng thành, Điêu Thuyền không chỉ tinh thông ca múa, thơ văn, mà dung mạo khí chất lại càng xuất chúng, nhan sắc “hoa nhường nguyệt thẹn”. Vợ chồng Vương Doãn xem cô như con đẻ, nhưng Điêu Thuyền biết mình là cô nhi, được vợ chồng Vương Doãn nhận nuôi lại rất mực yêu thương, do đó trong lòng cô luôn nghĩ rằng phải báo đáp ân tình của họ.
Đổng Trác gây họa
Vào cuối thời Đông Hán, Thái thú Hà Đông là Đổng Trác đem đại quân vào kinh thành tranh giành quyền lực, hắn đem vàng và ngựa xích thố mua chuộc dữ tướng Lã Bố làm nghĩa tử (con nuôi), lại bổ nhiệm lượng lớn bè lũ thân tín làm quan, hắn lại tự phong mình làm Thái úy, thao túng triều chính. Dù vậy, Đổng Trác vẫn chưa vừa lòng, muốn tiến thêm một bước phế bỏ vị vua trẻ, mưu hại Hà Thái hậu nhằm soán ngôi vua. Hành vi nào của hắn cũng ngang ngược, tàn ác khiến các chư hầu đều bất mãn. Viên Thiệu, Tào Tháo, Tôn Kiên cùng 18 chư hầu quần hùng rầm rộ khởi binh thảo phạt, triệu tập một triệu hùng sư, nhưng giữa các chư hầu lại nghi kỵ lẫn nhau, khó mà một lòng đoàn kết. Do đó cuộc chiến giữa liên quân và đại quân của Đổng Trác luôn trong thế cầm cự. Lúc này Đổng Trác cậy thế bên cạnh có Lã Bố võ nghệ cao cường làm thị vệ, lại đi khắp nơi hành ác, dung túng binh sĩ cưỡng bức phụ nữ, lạm sát người vô tội, thậm chí công nhiên sát hại đại thần phản đối hắn tại cung đình, cứ như thế triều chính ngày càng bại hoại, văn võ bá quan ai cũng trong vòng nguy hiểm.
Lúc này ở trong triều, nguyên lão Tư đồ Vương Doãn thống hận sự trơ tráo vô sỉ của Đổng Trác, lo lắng triều Hán bị hủy trong tay tên giặc này, nhưng khổ nỗi không có thực lực để đối kháng với hắn, vì thế cả ngày buồn rầu ủ dột. Một hôm ông đang tản bộ trong hoa viên thì gặp nghĩa nữ Điêu Thuyền, cô thấy vẻ mặt của cha liền hỏi: “Từ bé con đã nhận được sự yêu thương của cha, thường nghĩ đến việc báo đáp, gần đây thấy cha ủ dột không vui, không biết vì lẽ gì? Nếu có việc cần dùng đến con, con nhất định tận lực làm, muôn chết cũng không từ”. Vương Doãn nghe xong nói: “Bây giờ thiên hạ nơi đâu cũng nguy nan, quốc tặc Đổng Trác âm mưu chiếm ngôi vua, tuy nhiên cả triều văn võ đều bó tay hết cách, e rằng chỉ có con có thể cứu nhà Hán khỏi tay gian tặc. Ta có một kế: Đổng Trác và Lã Bố đều là phường háo sắc, muốn mượn nhan sắc của con khiến hai kẻ phản tặc trở mặt thành thù. Ta tính gả con cho Lã Bố trước, sau đó lại đem con hiến cho Đổng Trác, con ở giữa hai cha con chúng khiêu khích sao cho Lã Bố giết chết Đổng Trác. Nếu có thể như thế, ắt nhà Hán được khôi phục. Chỉ là con sẽ phải chịu thiệt thòi, không biết con có đồng ý không?”
Điêu Thuyền nghe xong kinh hãi thất sắc, vì nữ nhi coi trọng nhất là trinh tiết, cô phải hy sinh trinh tiết phục vụ hai kẻ ác đồ như hổ như sói, mà thế thì vừa làm thê lại làm thiếp, cô lại phải làm sao dùng mỹ nhân kế khiến hai kẻ đó trở mặt nhau đây?! Nếu không cẩn thận tất gây họa cho tính mạng của cả nhà… Điêu Thuyền có chút do dự, nhưng xét sự an nguy của chúng sinh thiên hạ, cô nguyện xả thân tận trung vì nước, tận hiếu vì cha mẹ, sau cùng nhận nhiệm vụ này. Điêu Thuyền từ từ đứng dậy, kiên quyết nói: “Con nguyện vì cha dốc sức, muôn chết không từ!” Sau khi Điêu Thuyền đồng ý, Vương Doãn bắt đầu kế hoạch, ông mời Lã Bố đến nhà làm khách, trong yến tiệc để Điêu Thuyền châm tửu phục vụ Lã Bố, lại múa nhảy cho Lã Bố xem, cứ như vậy Lã Bố dần say mê cô, giữa tiệc Vương Doãn hứa gả Điêu Thuyền cho Lã Bố, Lã Bố vui mừng đồng ý, vội vàng bái tạ. Sau đó Lã Bố nhiều lần qua lại gặp gỡ Điêu Thuyền, tình cảm hai người dần dần nồng đượm. Vương Doãn thấy thời cơ đã đến lại mời Đổng Trác đến nhà đãi tiệc, ông để Điêu Thuyền phục vụ Đổng Trác, Đổng Trác vừa thấy mỹ nhân đã thèm thuồng nhỏ dãi, liền đem Điêu Thuyền cùng về cung ngay trong đêm. Không lâu sau Lã Bố biết chuyện, đến tìm Vương Doãn nói lý lẽ, nhưng Vương Doãn đổ cho Đổng Trác cướp mất con gái, do đó quan hệ giữa Lã Bố và Đổng Trác bắt đầu thay đổi, Điêu Thuyền lại không ngừng khiêu khích khiến cho sự ghen ghét giữa hai người họ càng ngày càng trở nên gay gắt.
Một ngày nọ, nhân lúc Đổng Trác không có mặt, Lã Bố đến nhà Đổng Trác thăm dò Điêu Thuyền đồng thời hẹn cô đến đình Phượng Nghi gặp gỡ, Điêu Thuyền gặp được Lã Bố liền khóc lóc tố khổ bị Đổng Trác chiếm đoạt, Lã Bố đùng đùng nổi ghen. Đúng lúc Đổng Trác về đến phủ phát hiện hai người, hắn phẫn nộ cầm chiếc kích lao thẳng vào Lã Bố, Lã Bố phi thân bỏ chạy được; lúc này quan hệ giữa hai người đã trong thế như nước với lửa. Vương Doãn liền mượn việc này thuyết phục Lã Bố ám sát Đổng Trác. Không lâu sau, Vương Doãn giả ý nói cho Đổng Trác: Hán Hiến Đế quyết nhường ngôi cho hắn, Đổng Trác vì thế vào triều tiếp nhận quần thần chúc mừng. Thừa dịp Vương Doãn bước ra đọc chiếu chỉ thảo tội quốc tặc, lúc này Lã Bố xuất hiện giết chết Đổng Trác tại chổ, đến đây thì quốc tặc bị trừ bỏ.
Tung tích cuối cùng của Điêu Thuyền, người con gái trung hiếu vẹn toàn
Mặc dù mỹ nhân kế của Tư Đồ Vương Doãn thành công, tuy nhiên ông vì bệnh tật giày vò, sau cùng bị thuộc hạ cũ của Đổng Trác làm phản chống lại. Đầu năm Bình Tam (năm 192) Lý Thôi, Quách Dĩ đem hơn 10 vạn đại quân chiếm thành Trường An, giết hại cả nhà Vương Doãn, Lã Bố dẫn đám tàn quân chạy trốn, còn Điêu Thuyền không rõ tung tích. Từ đó, người ta thêu dệt nên rất nhiều câu chuyện liên quan đến cái kết của cô, trở thành huyền án thiên cổ. Dân gian lưu truyền hơn mười câu chuyện, tạp kịch, ở đây người viết chỉ rút ra hai câu chuyện được xem là tương đồng:
Chuyện thứ nhất
Sau khi biết được Vương Doãn bị hại Điêu Thuyền rất đau lòng, ban đầu có ý tự tử theo cha, tuy nhiên cô nghĩ lại: “Ta nhận sự ủy thác của cha nuôi xả thân vì nước, bây giờ cha nuôi bị bọn tặc quân sát hại, thi thể không người chôn cất, ta trước hết phải nhẫn nhục để làm tròn đạo hiếu cuối cùng này”.
Tiếp đó cô thu gom toàn bộ tiền của trong nhà đến am ni cô thuở xưa xin được ở lại, am chủ vui mừng đồng ý, để cô tạm thời lưu lại am thất. Sau khi tình hình ổn định lại, nhờ sự giúp đỡ của am chủ, Điêu Thuyền tìm được thi thể không nguyên vẹn đầu mình hai nơi của Vương Doãn, cô không cầm lòng được đã lớn tiếng bật khóc. Sau đó cô nhớ lại hình dáng cha nuôi lúc còn sống mà tự tay đẽo một khúc gỗ, rồi mua một chiếc quan tài tốt an táng cha nuôi. Sau khi đại nguyện hoàn thành Điêu Thuyền liền xuống tóc tu hành tại am, khi cô hơn 80 tuổi thì không bệnh mà rời đi.
Chuyện thứ hai
Sau khi phản quân của Lý Thôi và Quách Dĩ tấn công vào thành, Lã Bố đem tàn quân tháo chạy đồng thời mang theo Điêu Thuyền. Điêu Thuyền không có lựa chọn nào khác đành ở bên cạnh hắn. Lã Bố dựa vào thế lực các nơi, chiêu binh mại mã trở thành chư hầu một phương. Tuy nhiên Lã Bố chỉ là kẻ có võ công cao cường mà không có tài cầm binh, lại không thay đổi tính hợm hĩnh và phản phúc trước đây, sau cùng bị liên quân của Lưu Bị và Tào Tháo đánh bại và giết chết trong trận Hạ Bì.
Sau khi Lã Bố chết, Quan Vũ vào trấn thủ quan phủ trong thành, đêm hôm đó Quan Vũ nghe thấy tiếng khóc của phụ nữ, ông lần theo tiếng khóc thì phát hiện ra Điêu Thuyền. Quan Vũ thấy thế cho rằng cô giống với Đát Kỷ đều là hồng nhan họa thủy làm nhà Thương diệt vong, muốn đem cô giao cho binh sĩ hành hình. Lúc này Điêu Thuyền khóc than: Tướng quân Tô Văn hiền danh, không ngờ hôm nay muốn lấy mạng tiểu nữ, xin để tiểu nữ nói rõ rồi giết cũng chưa muộn… Cô thuật lại cho Quan Vũ chuyện Vương Doãn vạch ra liên hoàn kế trừ gian thần, sau nói rằng: “Thiếp chỉ là phận nữ nhi tự nguyện từ bỏ trinh tiết cứu quốc, nếu nay nhị tặc đều bị trừ rồi, chết cũng không hối tiếc, tuy nhiên chỉ mong có thể được an táng cùng cả nhà cha nuôi, coi như một chút lòng hiếu kính sau cùng. Quan Vũ nghe xong trong lòng cảm phục, ông hành lễ với Điêu Thuyền bày tỏ tâm ý, tán dương nghĩa cử tận trung tận hiếu của cô. Nói rồi kêu thuộc hạ đem đến 100 lượng bạc tặng cho Điêu Thuyền, Điêu Thuyền sau khi cảm tạ Quan Vũ liền rời đi.
Điêu Thuyền về đến Trường An thăm dò khắp nơi, biết được huyện lệnh Bình Lăng là Triệu Tiễn trong lúc binh mã hỗn loạn không màng sinh tử từ quan an táng Vương Doãn. Điêu Thuyền tìm đến bái tạ Triệu Tiễn. Lại vì cha nuôi thủ hiếu ba năm. Sau đó anh hùng Tào Tháo áp chế quần hùng, nghênh rước Hán Hiến Đế về đến Hứa Xuyên, tình thế dần dần chuyển nguy thành an, Hán Hiến Đế cảm nhớ sự trung trinh của Vương Doãn năm đó, liền làm lễ cải táng cho Vương Doãn tại Phong Quang Hứa Xuyên. Phong cháu trai của ông là Vương Hắc làm An Lạc Đình Hầu. Điêu Thuyền sau khi đại nguyện đã thành lại trở về am ni cô thuở trước, cô đem toàn bộ tài vật mà Quan Vũ tặng giao cho am chủ cảm tạ ơn nuôi dưỡng năm đó. Sau đó cô xuống tóc tu hành trong am, trăm năm sau cô tu thành viên mãn rời khỏi thế gian.
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/267521
(Ảnh từ Pixabay) |
Tác giả: Tiểu Liên
[ChanhKien.org]
Đây là câu chuyện về một cô gái tu thành Quan Thế Âm.
Chúng ta đều biết rằng đảo Hải Nam, Trung Quốc là một vùng đất tuyệt đẹp với rất nhiều điểm du lịch hấp dẫn như: núi Ngũ Chỉ Sơn, sông Vạn Tuyền, đền Ngũ Công, khu du lịch Thiên Nhai Hải Giác, công viên Lộc Hồi Đầu v.v… Các cô gái ở nơi đây cũng rất xinh đẹp, hơn nữa quần đảo nhỏ này lại có nhiều đặc sản như chuối, dừa,… Nhưng vào thời Tống Nguyên, nơi đây lại bị xem là vùng đất yên chướng (vùng đất âm u, ẩm ướt, nhiều bệnh tật). Vì vậy đây cũng là nơi lưu đày những người mắc tội nặng.
Chuyện kể rằng vào thời nhà Nguyên, ở Huệ Châu, Quảng Đông, Trung Quốc có một chàng trai trẻ vốn xuất thân nghèo khó nhưng rất giỏi giang. Anh được một thương nhân để mắt đến và hết lòng giúp đỡ, chẳng bao lâu sau công việc của anh trở nên phát đạt. Vì một lòng muốn làm tốt công việc buôn bán nên anh chẳng mảy may chú tâm đến chuyện thành gia lập thất, cũng có nhiều người mai mối giới thiệu cho anh những cô gái tốt nhưng anh hoàn toàn không để tâm, có lúc lại do công việc thực sự rất bận nên quên cả việc kết thân, nên đến tận năm 30 tuổi mà anh vẫn một thân một mình.
Bấy giờ khi đến Sán Đầu làm ăn, một người bạn giao thương đã giới thiệu cho anh một cô gái có điều kiện tốt về mọi mặt, anh nghe xong liền gượng cười và nói:
– Người ta có điều kiện tốt như vậy còn tôi nay đây mai đó, cũng không có nơi cố định để dừng chân, liệu người ta có thể đợi tôi không? Chẳng giấu gì anh, trước đây tôi cũng nhiều lần định rõ ngày kết thân, nhưng khi có việc giao thương đến đành phải đi ngay, lúc tôi quay về thì họ đã được gả đi cả rồi, có người thậm chí đã có con rồi. ‘Ai bảo anh hễ đi là một mạch mấy tháng tới mấy năm!’, đối phương chế giễu tôi như vậy đó.
– Nhưng hôm nay tôi giới thiệu cho anh một người mà anh sẽ hết sức yên tâm, dù có thành thân được hay không, chỉ cần anh gật đầu thì cô ấy sẽ sắt son chờ đợi, quyết không thay lòng!
– Thật sao? Trên đời này thực sự có người cam tâm chịu cảnh cô đơn phòng không chiếc bóng sao?
Điều này khiến anh vô cùng hứng thú:
– Xin hỏi cô ấy tên gì?
– Hâm Liên.
– Là con gái nhà ai?
– Gia đình rất giàu có nhưng cô ấy sẵn lòng sống cuộc sống nghèo khó và cô độc. Người ta nói rằng cô ấy từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ ăn thịt, suốt ngày giam mình trong nhà.
– Cô ấy có bị bệnh gì không?
– Tuyệt đối không, vì anh chưa gặp cô ấy thôi, gặp rồi thì anh sẽ biết. Mặc dù cô ấy rất ít nói, nhưng chỉ cần anh có thể nói chuyện với cô ấy, anh sẽ bị ấn tượng bởi những đạo lý mà không biết cô ấy nghe được từ đâu. Hơn nữa cô ấy còn có một bài thuốc bí truyền độc đáo không biết học được từ đâu, có thể chữa được rất nhiều bệnh nan y. Nói chung bình thường cô ấy rất ít nói. Vì tôi rất thân với nhà cô ấy, nên mấy hôm trước mẫu thân cô ấy có tìm tôi và nói rằng con gái bà bảo là duyên phận hôn nhân đã đến rồi, nhờ tôi tìm giúp cô ấy một người có phẩm cách và tướng mạo tương xứng, tốt nhất là 30 tuổi trở lên. Lúc đó tôi vội hứa với bà nhưng trong lòng thầm nghĩ: biết tìm một người như vậy ở đâu! Nhưng khi tôi vừa nhìn thấy anh thì mới vỡ lẽ, người ấy chính là anh!
– Thật không? – Chàng trai trẻ có phần nghi ngại.
– Nếu anh không tin, thì khi gặp mặt anh sẽ biết. Ngày mai tôi sẽ thu xếp để anh gặp cô ấy.
Sáng sớm hôm sau, thương nhân đưa hai cha con Hâm Liên đến. Sau khi chào hỏi và sắp xếp chỗ ngồi chủ khách xong, phụ thân của Hâm Liên nói: “Hôm qua con gái tôi bảo rằng, người hôm nay gặp mặt chắn chắn là ‘ý trung nhân’ của nó, đây là nhân duyên đời trước tạo thành”. Khi này chàng trai trẻ mới nhìn Hâm Liên một cách tỉ mỉ: đôi mắt lá răm, lông mày lá liễu (chỉ tướng phú quý), môi đỏ chúm chím, mặt như hoa đào tâm như ngọc, tâm tĩnh như nước để lộ vẻ uy nghiêm. Thật sự giống như Bồ Tát từ thiên giới hạ phàm. Trong lòng anh thầm nghĩ, mình đã bao năm vào Nam ra Bắc, cũng đã từng gặp nhiều cô gái xinh đẹp, nhưng chưa từng gặp cô nương nào có phong thái khí chất như vậy!
Người bạn giao thương kia thấy anh đang ngẩn ra nhìn bèn nói: “Nếu đã vừa ý vậy ta chọn ngày lành tháng tốt để thành thân có được không?”. “Được được được!”, anh cũng không biết nên nói gì thêm. Hâm Liên cũng nở một nụ cười thật xinh: “Vậy cứ theo lời bá phụ”. Nửa tháng sau tại nhà anh ở Huệ Châu pháo đỏ nổ vang, chiêng trống rộn ràng, Hâm Liên được đón dâu trong những âm thanh tưng bừng náo nhiệt. Sau khi bái thiên địa vào động phòng, đương lúc anh định cùng Hâm Liên “động phòng hoa chúc” thì người nhà đến báo rằng có một vụ làm ăn rất lớn rất đặc biệt cần phải đi ngay trong đêm, không thể để lỡ một khắc, nếu không thương vụ sẽ không thể hoàn thành. Anh vừa nghe xong đã vội mặc lại quần áo rồi lên đường.
Cứ như thế, mỗi lần anh trở về, Hâm Liên nếu không ở nhà họ hàng của anh thì cũng đang ở nơi nhà tranh vách đất nào đó xem bệnh. Chuyện như vậy lặp lại rất nhiều lần. Có lần anh hỏi Hâm Liên: “Lẽ nào nàng không muốn có con?” Hâm Liên đáp lại: “Đến hôm nay có rất nhiều điều thiếp muốn nói rõ với chàng. Thiếp vốn là một La Hán trên thiên giới còn chàng là thị nữ bên cạnh Vương Mẫu Nương Nương. Vì trên thiên giới chàng phạm một lỗi nhỏ mà bị đày xuống phàm trần. Còn thiếp được thiên thượng chọn xuống nhân gian tu hành. Vương Mẫu Nương Nương an bài thiếp đến nhân gian tìm chàng, cùng nhau tu hành, cuối cùng sẽ quay về thiên giới! Chàng có hiểu rõ lời thiếp nói không? Cũng có nghĩa là chàng và thiếp kết hôn không phải để sinh con đẻ cái, mà là để ma luyện chính mình, tu luyện chính mình, nên sau này chàng không cần động đến thiếp, có được không? Vì sao đêm động phòng hôm ấy chàng lại có việc giao thương? Cũng có nghĩa là, chàng chớ tham cảnh sắc nhân gian, buông bỏ cái vui của thế tục, tu hành quay về thiên thượng mới có thể thực sự thoát khỏi khổ nạn chốn nhân gian và thật sự có được điều mỹ hảo chân chính”.
Có thể là cơ duyên tu hành đã đến nên sau khi nghe xong chàng trai lập tức minh bạch được rất nhiều điều. Anh vừa định gọi nương tử, nhưng thấy cách xưng hô này thật nhân tình hoá, bèn nói: “Vậy Hâm Liên, chúng ta nên làm thế nào?” Hâm Liên đáp lời: “Dễ thôi, người ngoài nhìn thì thấy chúng ta ở cùng một nhà, nhưng chúng ta không ai động đến ai, ở nơi thế tục này chúng ta cần tu tốt chính mình, đồng thời cần tích đức hành thiện, quan trọng hơn là, khi gặp phải việc không như ý cần phải nhớ lấy nhẫn nhục làm trọng! Cần làm được không ghen ghét không oán hận! Hết thảy đều được trời định sẵn rồi”.
Anh dần dần cũng bắt đầu tu hành. Trong việc kinh doanh anh làm rất tốt nhưng cái tâm tiền tài vẫn mãi chưa buông bỏ được. Hâm Liên không nói nhiều với anh, vì cô biết rằng sắp tới sẽ có một đại nạn, cái nạn này sẽ giúp anh vứt bỏ chấp trước đối với tiền tài.
Quả nhiên đến nửa năm sau, khi làm một việc kinh doanh lớn anh đã đắc tội với một kẻ vô lại. Tên vô lại này đã câu kết với quan phủ khám xét tịch thu gia sản của anh, rồi áp giải anh đày đến Hải Nam. “Đúng lúc” ấy Hâm Liên đang khám cho một bệnh nhân nghèo khó ở cách đấy hàng trăm dặm. Khi Hâm Liên trở về và nghe tin này, cô đã chủ động lên thuyền đến đảo Hải Nam.
Vì rất nhiều người trong vùng đều biết anh là người như thế nào và cũng biết tên vô lại kia là kẻ xấu xa, nên đến cách Huệ Châu không xa, các sai dịch liền cởi xiềng xích cho anh và “tháp tùng” anh như bạn bè đến đảo Hải Nam.
Khi thuyền vượt biển đến nơi lưu đày thì “đúng lúc” Hâm Liên cũng đến, cô nói với các lính canh: “Cảm ơn các anh trên đường đi đã luôn chiếu cố đến anh ấy, hôm nay các anh đã tích được việc công đức, có thể miễn trừ rất nhiều khổ nạn cho các anh sau này, thậm chí có thể thăng lên thiên giới! Khi các anh trở về nhất định phải hành thiện tích đức, thiện đãi bách tính, đừng bao giờ giúp kẻ ác làm hại một ai!”
Người đứng đầu trong số họ nói: “Lâu nay nghe nói cô hiểu biết đạo lý rất thâm sâu, tôi nghĩ có thể cho chúng tôi ở lại cùng các vị được không, những ác quan ấy chúng tôi không muốn hầu hạ chút nào!”
Hâm Liên đáp: “Tu hành là việc rất khổ, rất cô độc tịch mịch, các anh có chịu được không? Hơn nữa các anh đều có người nhà trên già dưới trẻ, có thể yên tâm ở đây tu hành sao?”
“Việc ấy dễ thôi, chúng tôi cho người quay về báo tin, rằng chúng tôi đã ở bên ngoài xuống tóc tu hành, không quay về nữa”.
Hâm Liên xem chừng cơ duyên tu hành của những người này đã đến, bèn đồng ý với họ. Những lính canh phái một người quay về Huệ Châu nói với ác quan rằng, những người trên đường vượt biển trở về bị chết đuối cả, còn lại mỗi anh, anh muốn đến nhà người họ hàng ở bên ngoài tìm công việc sai lại khác, không muốn làm ở đây nữa. Tên ác quan đồng ý với yêu cầu của anh và còn gửi đến nhà mỗi lính canh “gặp nạn” 22 lượng bạc, xem như một khoản tiền bồi thường. Mọi người đều mắng rằng tên cẩu quan keo kiệt. Tạm thời không nhắc đến hắn.
Khi người lính canh đến nhà những lính canh khác nói rằng họ đã xuống tóc tu hành, nhiều người thân của họ không lý giải được, nhưng cũng có không ít người thấu hiểu. Nhiều người còn muốn anh dẫn họ đi tìm người nhà của mình, và cũng muốn tu hành theo. Trong đó có một gia đình dẫn theo hai đứa trẻ một trai một gái chưa đầy một tuổi đi cùng. Anh chỉ còn cách mang họ quay về đảo Hải Nam. Trên núi Ngũ Chỉ Sơn, Hâm Liên dẫn dắt mọi người cùng nhau tu hành. Sau đó hai đứa bé nghiễm nhiên thành hai đồng tử hầu hạ bên cạnh Hâm Liên. Những lúc rảnh rỗi Hâm Liên thường chữa bệnh giúp người dân địa phương, qua thời gian lâu cô trở nên rất có danh tiếng ở đó.
Tu luyện cần một cái tâm thanh tịnh và ngộ tính cũng cần phải tốt. Trong số họ có những người mà tâm không được thanh tịnh cho lắm và ngộ tính không phải lúc nào cũng được tốt. Còn Hâm Liên cũng dần dần thể ngộ được những pháp lý tại các cảnh giới khác nhau; khi cô có những nút thắt không giải khai được trong tâm, thì khi ở trên núi, hoặc khi trên đường đi chữa bệnh cho người dân, hoặc trong giấc mộng đều thấy được những cảnh tượng điểm ngộ [giải mê], như thế cô càng thêm tinh tấn và cố gắng tiến bước trên con đường tu hành. Riêng phu quân của Hâm Liên cũng lại như thế. Chẳng hạn lúc mới đến anh chưa quen điều kiện ở đây, trong tâm rất khó chịu, một mặt vì tiền tài của anh đã bị tịch thu, mặt khác đối với kẻ vô lại và tên ác quan thì anh vẫn còn ôm giữ tâm oán hận. Lúc này Hâm Liên bèn nói với anh: “Sở dĩ gia sản của chàng bị tịch thu là vì cái tâm tiền tài chàng chưa buông xuống được. Còn tên vô lại kia là đứa con của chàng ở nhiều kiếp trước, vì chàng cả ngày bận rộn việc công, khi đứa bé sinh ra bị mắc bệnh mà không được chữa trị kịp nên đã chết, kiếp này nó đến tìm chàng để đòi nợ”.
Cứ thế trải qua 20 năm, vào một đêm mùa thu thanh phong lãnh nguyệt (gió mát trăng lạnh), Hâm Liên biết rằng con đường tu hành của mình đã kết thúc, bèn tập hợp mọi người và những hàng xóm lân cận lại nói: “Nhân gian rất khổ, không chỉ là những chuyện ân oán không như ý mà còn phải trong lục đạo luân hồi chờ đợi một cách vô cùng khổ sở, nếu không tu hành thì vĩnh viễn sẽ không được siêu thoát, do đó chúng ta phải nhớ rằng: nhất định phải tu hành thật tốt, không được chểnh mảng!…”
Khi cô vừa dứt lời thì trên không trung vang lên tiếng pháp nhạc, sau đó là những cảnh tượng tráng quan thiên nữ trải hoa xuất hiện, hai tiểu đồng tử tự nhiên trở thành người hầu bên cạnh Hâm Liên, họ từ từ bay lên không. Lúc này rất nhiều người ngẩn ra nhìn, cũng có người quỳ xuống cầu xin Hâm Liên nói thêm vài câu. Hâm Liên đưa tay lập chưởng trước ngực, đứng trên bảo toạ liên hoa đang từ từ bay lên, nói:
Vi tu chính quả hạ phàm gian
Triển chuyển luân hồi hứa đa niên
Kim triều tu hành hồi thiên chuyển
Cáo tố chúng sinh sổ chân ngôn:
Nhân gian khổ hải bất trường cửu
Danh lợi ân oán thử trung cầu
Bất liêu bách niên hà năng lưu
Chỉ hữu lưỡng nghiệp tùy thân tẩu
Mê trung tỉnh lai phương giác mộng
Bổn tính tiệm ngộ quy Phật thừa
Tu hành khổ lai tâm khước cam
Lộ đáo tẫn đầu chung phi thăng
Đoạn khứ nhân tình liễu ân oán
Tự tại tiêu dao Pháp vô biên
Từ bi vạn vật minh chân ý
Vĩnh sinh vĩnh nhạc thiên địa huyến
Dịch nghĩa:
Vì tu chính quả mà hạ phàm
Chuyển trong luân hồi biết bao năm
Hôm nay tu thành trở về trời
Nói với chúng sinh mấy chân ngôn:
Nhân gian bể khổ không dài lâu
Danh lợi ân oán truy cầu đó
Sau này trăm tuổi lưu được chăng
Chỉ có hai nghiệp [1] đeo bên thân
Trong mê tỉnh lại biết là mộng
Bản tính tiệm ngộ quy Phật thừa
Tu hành chịu khổ lánh nhàn hạ
Cuối đường tu luyện bay lên trời
Đoạn dứt nhân tình hết ân oán
Tiêu dao tự tại Pháp vô biên
Từ bi vạn vật minh chân ý
Vĩnh sinh vĩnh lạc thiên địa huyến [2]
Lúc ấy có người hỏi: “Thế Pháp hiệu của cô là gì?” Khi này cô chỉ mỉm cười, mang theo hai đồng tử bay lên. Một lúc sau từ trên không trung có tiếng vọng xuống: “Ta vốn là La Hán trên thiên thượng, vì ở đó ta muốn tu đến cảnh giới Bồ Tát, nên nguyện xuống nhân gian tu hành, hơn nữa ta lại cùng lúc hạ giới với một nữ hầu bên cạnh Vương Mẫu Nương Nương bị phạm lỗi. Ở đời này khi ta muốn tu hành xuất thế, một vị nữ Bồ Tát đã đến dạy ta tu hành. Khi ta tu đến một tầng thứ nhất định, bà ấy bảo ta khi tu thành hãy lấy Pháp hiệu là ‘Quan Thế Âm’. Bây giờ ta đã tu thành quả vị Bồ Tát, các vị hãy gọi ta là Quan Thế Âm Bồ Tát’! Các vị nhất định phải tu hành thật tốt, không được chểnh mảng! Nhớ lấy! Nhớ lấy!……”
Nhiều năm sau, rất nhiều người trong số đó đều đã tu thành chính quả, trong đó có cả phu quân của Hâm Liên. Ở đây chúng tôi sẽ không nói chi tiết.
Câu chuyện của cô gái chúng tôi chỉ kể đến đây.
Ghi chú:
[1] hai nghiệp: ở đây chỉ hai chủng thiện nghiệp và ác nghiệp
[2] thiên địa huyến: chỉ nơi cảnh giới vô cùng mỹ hảo tươi sáng, bởi vì tầng tầng không gian trong vũ trụ đều có thiên và địa.
(Ảnh từ Pixabay) |
Nhân việc bùng phát lại dịch Covid 19 ở Trung Quốc, chúng ta cùng nhìn lại và đặt câu hỏi, dịch bệnh này cho ta bài học gì?
Để làm một bóng đèn sáng hay tắt thì do con người biết quy luật của dòng điện.
Để làm ra một cây đàn phát ra âm thanh hay, con người cũng nắm được quy luật của âm thanh.
Để làm ra cái xe chạy được, con người cũng nắm được nhiều quy luật khác nhau.
Còn dịch bệnh thì sao, đương nhiên dịch bệnh cũng có quy luật, nhưng vì không nắm được quy luật đó nên chúng ta không biết làm cách nào để dừng nó lại.
Trong một ván cờ, khi các con cờ đều tuân thủ các quy tắc di chuyển thì ván cờ sẽ được vận hành.
Nếu một quân cờ không tuân thủ quy tắc di chuyển nữa thì điều gì sẽ xảy ra, có thể hiểu rằng ván cờ ấy sẽ bị phá vỡ, quy luật đã bị vi phạm.
Thường thì một quân cờ do nước đi sai lầm hoặc vì mục đích chiến thuật mà bị bên kia tiêu diệt.
Nhưng nếu như quân cờ tự ngã lăn đùng ra mà chết thì lại là một điều gì đó không còn bình thường nữa.
Về cơ bản nó đã nằm ngoài quy luật của các quân cờ. Và đương nhiên sự lý giải về các hiện tượng này cũng không còn chính xác nữa.
Dịch bệnh hiện nay con người cũng không lý giải được, vì sao, vì chúng ta không hiểu nó, cách chúng ta lý giải nó hoàn toàn mơ hồ và mang tính thử nghiệm và khảo sát.
Bằng chứng là các phương pháp chúng ta đưa ra phòng chống dịch bệnh đều bị phá vỡ. Và dịch bệnh làm chúng ta hoang mang. Bởi nếu chúng ta nắm nó trong lòng bàn tay, thì chẳng có gì phải hoang mang và lo lắng cả và chắc chắn sẽ khống chế được nó.
Vậy, dịch bệnh bắt nguồn từ đâu và làm sao để thoát khỏi nó?
Thực ra, dịch bệnh bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết của con người với tự nhiên, với sự vận hành của vũ trụ và của sinh mệnh.
Ai cũng biết tự nhiên là có quy luật, vũ trụ là có quy luật, cũng như luật của một ván cờ vậy. Việc không tuân thủ luật của tự nhiên, không tuân thủ luật của cơ thể thì chúng sẽ đưa ta đến một trạng thái khác của cơ thể và biểu hiện ra là trạng thái khác thường của xã hội.
Đi làm, đi học, ăn uống v.v… là một trong nhiều việc đương nhiên của quy luật của con người và sinh mệnh, nhưng đến bây giờ…những việc ấy trở nên khó khăn, hoặc không thể thực hiện được. Điều đó nói lên rằng, chúng ta đã làm sai ở chỗ nào đó, mà cái sai này không phải là nhỏ.
Nhưng với sự tự tin về khoa học và bằng cấp với chức vị rất hoành tráng chúng ta không muốn thừa nhận sự thiếu hiểu biết và những cách làm sai lầm của chúng ta. Chúng ta chỉ nghĩ rằng chúng ta chỉ tạm thời sai. Và tương lai chúng ta sẽ đúng và vượt qua. Rồi như mọi lần, chúng ta sẽ làm được điều đó, dịch bệnh sẽ hết, đúng là dịch bệnh sẽ hết, nhưng...ai sẽ là những người còn lại chứng kiến ngày đó xảy ra thì chúng ta không nói tới? Bạn hiểu tôi nói chứ.!
Lúc này chúng ta sẽ thấy được, cái giá phải trả cho sự thiếu hiểu biết về sinh mệnh rất là to lớn. Nó sẽ là sinh mệnh bị đào thải.
Vậy chúng ta đi hỏi lại, mục đích của việc đi học và đi làm của chúng ta là gì?
Vì sao đi học với đi làm lại không được nữa khi dịch bệnh xảy ra.
Vì cơ bản chúng ta thực hiện việc đó là sai mục đích. Vì việc học là học về quy luật của vũ trụ và sinh mệnh, việc làm là để áp dụng cho việc học và duy trì sự tồn tại của sinh mệnh, và đưa sinh mệnh con người đến cảnh giới cao hơn.
Nhưng chúng ta lại dùng việc học để đi làm và dùng việc đi làm để kiếm tiền rồi phục vụ cho sự hưởng thụ và dần sa đọa của bản thân.
Nhiều người sẽ nói rằng, việc đó không phải đã có các nhà khoa học và bác sĩ làm rồi sao?
Đây chính là một quan niệm sai lầm, sinh mệnh của bạn là do chính bạn quyết định và trau dồi. Nhà khoa học hay bác sĩ không thể chết thay bạn khi đại dịch tràn tới. Đây là vấn đề trách nhiệm của mỗi người.
Có một điều đơn giản rằng, khi đi qua Anh quốc thì bạn sẽ đi xe ở làn bên trái, nếu không thì bạn sẽ gặp nguy hiểm.
Vũ trụ và sinh mệnh hay dịch bệnh cũng vậy, nếu bạn không hiểu quy luật vận hành thì nguy hiểm sẽ ở gần bạn.
Bạn ở trong vũ trụ này thì liệu bạn sẽ ra sao khi sống mà không tuân thủ quy luật của vũ trụ.
Bạn ở trong một quốc gia thì bạn sẽ ra sao khi không tuân thủ pháp luật của quốc gia.
Vậy ai sẽ nói cho bạn những quy luật ấy.
Đó chính là Phật, Đạo, Thần.
Vậy bạn suy nghĩ sao về Thần Phật… thì cơ bản bạn đã hiểu kết cục của mọi sự rồi vậy.
Sự học đúng nghĩa mới là cách cứu được sinh mệnh của mình. Nếu không, sự học ấy là sai mục đích.
Sự làm là cách áp dụng sự học để đạt được hạnh phúc thực sự.
Ăn uống và đi lại là cách duy trì sinh mệnh để hỗ trợ cho hai việc trên.
Viết bởi: Thanh Thiên Ngọc Ảnh
(Ảnh từ Trithucvn) |
Tác giả: Chánh Kiến Net
[ChanhKien.org]
Chào các bạn, chương trình hôm nay sẽ tiếp tục kể cho các bạn nghe câu chuyện về Dược vương Tôn Tư Mạc. Tôn Tư Mạc không chỉ chữa khỏi bệnh cho vô số bệnh nhân, hơn nữa vì ông có phương pháp tu luyện, y đức cao thượng, ông còn để lại truyền thuyết thần kỳ “chữa rồng cứu hổ, đức đến muôn loài”. Có nghĩa là trị bệnh cho rồng và hổ, nghe có vẻ rất thú vị.
Đầu tiên là câu chuyện “cách trị bệnh tài tình cho Long Vương”.
Vào một đêm khuya mưa bão sấm sét, ngôi nhà tranh nằm dưới vách núi cao của Tôn Tư Mạc vang lên tiếng gõ cửa. Ông mở cửa thấy một cậu học trò áo trắng đứng trước cửa nhà, khi đó trên trời sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước, nhưng điều thật kỳ lạ là quần áo cậu học trò áo trắng này lại không dính một giọt nước! Tôn Tư Mạc hỏi anh ta: “Cậu muốn xem bệnh à?” Cậu học trò áo trắng vội vàng gật đầu nói vâng.
Tôn Tư Mạc bảo cậu ta vào trong phòng rồi ngồi xuống, sau khi bắt mạch ông nói: “Cậu không phải là người chăng?” Cậu học trò áo trắng ngây người rồi lập tức trấn tĩnh lại trả lời rằng: “Làm sao ông biết được?” Tôn Tư Mạc mỉm cười nói: “Cậu đến thì có sấm sét đùng đùng, cuồng phong nổi lên, cậu ngồi yên tĩnh thì gió mưa sấm sét cũng hết. Y phục cậu mặc trong mưa to gió lớn mà không hề bị ướt chút nào, hơn nữa mạch tượng của cậu không cái nào là không hiển thị thuộc tính kỳ lạ. Nếu tôi đoán không lầm thì cậu nhất định là đứng đầu thủy cung – là Thần long chăng?” Cậu học trò áo trắng nghe xong liên tiếp gật đầu ca ngợi: “Thảo nào đại danh Chân nhân khắp nơi trên trời dưới đất không đâu không biết. Đúng là đại danh, quả thực danh bất hư truyền!” Nói rồi, cậu học trò tự mô tả chứng bệnh của mình: “Mấy hôm trước, vì tôi đói quá nên ăn uống vội vàng, không biết vật gì đã gây tắc thực quản. Thế là mấy ngày sống chút hơi tàn, chỉ có thể uống được một chút canh loãng để giữ mạng sống”. Tôn Tư Mạc nghe xong bèn sai đồng tử đem một thùng nước thuốc đặt trước mặt người học trò áo trắng, giục anh ta mau chóng uống, không được ngừng nghỉ, nếu không thì bệnh này khó chữa.
Người học trò áo trắng nghe xong vội vàng bưng thùng nước lên uống liền một hơi hết thùng nước vào trong bụng. Trong bụng bỗng cuộn trào, cổ họng cảm thấy không thể nhẫn chịu nổi, lập tức cúi đầu xuống “ọe” một tiếng, nôn liên tục vào cái thùng lớn đó. Người học trò áo trắng đó kinh ngạc nhìn thấy lẫn trong mớ ô uế nôn ra đó có một con rắn dài, anh ta bất giác ca ngợi: “Linh đan diệu dược của Chân nhân, quả thực là ra tay là bệnh hết”. Tôn Tư Mạc vui vẻ cười ha hả và nói: “Linh đan diệu dược gì đâu, chẳng qua chỉ là một thùng giấm trộn tỏi giã nhỏ mà thôi. Chua cay trộn lẫn, con rắn đó tự nhiên sẽ không chịu được”. Ông dừng lại một lát rồi nói tiếp: “Bệnh của cậu cái gốc đã bị trừ, nhưng nguyên khí chưa khôi phục, tôi châm thêm cho cậu một mũi kim thì có thể chịu đau một lần mà yên ổn mãi mãi”. Người học trò áo trắng nghe xong liên tiếp khen hay.
Tôn Tư Mạc liền đi đến sau lưng người học trò, lấy ra một chiếc kim vàng dài hơn một thước, nhằm đúng vị trí phía sau đỉnh tim sau lưng cắm mạnh xuống. Người học trò áo trắng đó gầm lên một tiếng, lập tức hóa ra nguyên hình thực sự là một con rồng lớn to bằng thùng nước có vẩy bạc lấp lánh. Con rồng mềm nhũn nằm cuộn trên nền nhà không động đậy. Hai con mắt như hai chiếc đèn bạc kia chăm chăm nhìn Tôn Tư Mạc. Tôn Tư Mạc nói: “Lát nữa ta rút chiếc kim vàng ra thì cậu sẽ vụt lên chui mạnh vào tường đá trong nhà. Nếu như cậu có thể chui qua vách đá ngọn núi này, bay lên mây thì nguyên khí của cậu đã thực sự phục hồi rồi”. Nói rồi, ông đưa tay rút chiếc kim trên lưng rồng ra và thét lên: “Mau chui qua vách đá!” Rồng trắng lay động chuyển mình, lập tức chui vào vách đá, thoáng chốc đã biến mất trên vách đá. Từ đó một cái lỗ lớn sâu và rộng được lưu lại trên vách đá đó.
Một lát sau, trên không trung vọng xuống tiếng nói của người học trò áo trắng: “Chân nhân đức đến muôn loài, là mẫu mực của Thần Tiên. Tôi phải lập tức trở về thủy phủ, phòng lũ cứu hạn, mãi mãi tạo phúc cho nhân loại”. Tôn Tư Mạc mở cửa ra, chỉ thấy một tia chớp trên bầu trời, bóng hình rồng trắng thấp thoáng trong mây và biến mất trong không trung bao la.
Sau chuyện “chữa bệnh thần kỳ cho Long Vương”, chúng ta lại nói đến câu chuyện của Tôn Tư Mạc “Cứu chữa mãnh hổ, vòng chuông truyền thế”.
Một lần Tôn Tư Mạc xuống núi chữa bệnh cho bệnh nhân, trên đường trở về bỗng thấy trong lùm cây một con mãnh hổ trán trắng, con ngươi dựng ngược bước ra. Mặc dù là người tu Đạo đã bàng quan với thế giới, đối diện với sinh tử đều rất bình thản, nhưng bỗng nhiên xuất hiện tình huống này, Tôn Tư Mạc vẫn thất kinh.
Con mãnh hổ đó dường như cũng biết Tôn Tư Mạc hiểu lầm nó, nên đi đến cách Tôn Tư Mạc chừng ba thước thì nó thu hai chân trước lại, nằm phủ phục xuống đất, giống như dáng vẻ khấu đầu của con người. Tôn Tư Mạc cảm thấy kỳ lạ, trong lòng thầm nghĩ: Lẽ nào vị chúa sơn lâm này muốn chữa bệnh sao? Thế là ông bèn hỏi: “Lẽ nào hổ trên thân có bệnh, muốn ta chữa trị chăng?”
Chỉ thấy hổ khấu đầu liền ba cái. Nhưng lúc đó Tôn Tư Mạc lại nghĩ: Long Vương là Thần linh, chúa sơn lâm là loài tàn ác. Hổ đói ăn thịt người, ai nấy đều muốn tự tay đâm mới hả dạ, sao ta có thể chữa cho nó, trở thành người giúp kẻ ác được? Thế là ông nói với nó rằng: “Đời ta không chữa bệnh cho ba loại, không chữa cho kẻ ác, không chữa cho yêu tà, không chữa cho kẻ tàn hại dân chúng. Ngươi là thú dữ trong núi rừng, ta chữa khỏi bệnh cho ngươi, chẳng phải giúp ngươi hại người, ăn thịt người đó sao?” Nói rồi ông ngẩng cao đầu ưỡn ngực bước thẳng về phía trước. Con mãnh hổ đó theo sát sau ông, dùng miệng cắn nhẹ góc áo ông, trong miệng kêu thành tiếng “u, u”, nước mắt “rào rào” rơi xuống. Tôn Tư Mạc là người tu Đạo, từ bi vô lượng, thấy hổ như thế thì trong lòng thương cảm, bất giác rơi lệ. Ông lập tức dừng bước nói: “Ngươi nhất định muốn ta chữa bệnh cũng được, nhưng phải đảm bảo từ nay trở đi quyết không được làm tổn hại đến sinh mệnh người”. Hổ lập tức bỏ áo ông xuống, nằm phủ phục xuống đất như con cừu, gật đầu đồng ý. Tôn Tư Mạc lại nói: “Nhân loại cũng có nhiều người nói mà không giữ chữ tín, để ngăn ngươi cũng có thói đó, hàng ngày ngươi phải đến trước mặt ta nhe răng để ta kiểm tra”. Hổ cũng gật đầu đồng ý.
Tôn Tư Mạc mạnh dạn bước tới xem, thấy yết hầu con hổ bị sưng tấy nghiêm trọng, nhìn kỹ thì thấy có một cái xương đâm xuyên từ trên xuống dưới yết hầu, bất chấp nguy hiểm, ông dùng thanh sắt giữ miệng con hổ, đề phòng khi điều trị nó bị đau mà cắn làm tổn thương ông. Sau đó ông rút cái xương ra, cắt bỏ phần thịt thối, bôi thuốc và lấy thanh sắt ra.
Từ đó con hổ này cũng rất trọng tín nghĩa, hàng ngày ở xung quanh bảo vệ ông. Tôn Tư Mạc vào núi hái thuốc, nó cõng gùi thuốc trên lưng, miệng ngậm cuốc đào thuốc; khi Tôn Tư Mạc đi chữa bệnh, nó để ông cưỡi trên lưng, miệng ngậm hòm thuốc, thực sự đã trở thành vệ sỹ trung thực và đồng bộc của ông. Các thầy thuốc cổ đại trên lưng thường cõng hòm thuốc, tay đeo chiếc vòng chuông, đi trên ngõ phố thường giơ chuông ngang tầm trán lắc leng keng không ngừng. Chiếc chuông này tương truyền chính là năm xưa Tôn Tư Mạc chữa bệnh cho chúa sơn lâm, dùng để đặt vào miệng hổ để nó há ra, rồi thò cánh tay vào trong miệng hổ dùng các y cụ để chữa bệnh.
Các bạn thân mến, các bạn vừa nghe câu chuyện thần kỳ của Dược vương Tôn Tư Mạc, nghe rất giống thần thoại và truyền thuyết phải không? Kỳ thực, Trung y của Trung Quốc cổ đại, thế giới mà họ quan sát được đã vượt ra ngoài không gian hiện có mà khoa học hiện đại thừa nhận. Một số Thần y vốn là những người tu luyện, người hiện đại không thể hiểu được sự tinh túy của họ, càng không biết được làm thế nào con người có được kiến thức thần kỳ như vậy hàng ngàn năm trước. Cho nên trong mắt của con người ngày nay, nó đã trở thành truyền thuyết thần thoại. Vì vậy, trong chương trình tiếp theo, tôi sẽ tiếp tục kể cho các bạn nghe câu chuyện “chữa bệnh miễn phí đổi nhân sâm” của Tôn Tư Mạc khi ông bị bọn cướp bắt cóc.
Tác giả: Hải Tân, Nhất Đấu
[ChanhKien.org]
Vào thời nhà Minh, Lý Thời Miễn giữ chức quan Hàn Lâm (chức quan thời xưa nắm giữ những văn kiện bí mật mà hoàng đế trực tiếp ban hành), một hôm đang trên đường đi xem hội hoa đăng vào đêm rằm tháng Giêng, ông nhặt được một chiếc trâm cài tóc bằng vàng, ngày hôm sau ông dán chiêu lệnh (yết thị cho người mất của đến nhận) lên trước cửa nhà mình. Không lâu sau có một người phụ nữ hoảng hốt chạy đến nhà của Lý Thời Miễn và nói với ông rằng: “Chồng của tôi là Thiên hộ [1] của cẩm y vệ, mấy hôm trước ông ấy đã đi làm nhiệm vụ ở nước ngoài, đêm qua tôi đi xem hội đèn lồng đã vô tình đánh rơi một chiếc trâm cài tóc bằng vàng, tôi vẫn còn giữ một chiếc cài tóc khác giống như vậy để làm chứng”. Sau khi kiểm tra, Lý Thời Miễn trả lại chiếc trâm cài tóc cho người phụ nữ. Chẳng bao lâu sau vị quan Thiên hộ kia từ nước ngoài trở về, ông ta đã mang theo nhiều quà đến để cảm ơn Lý Thời Miễn nhưng Lý Thời Miễn đều từ chối. Vị quan Thiên hộ nói: “Nếu như ngài không nhận thì tôi cũng không miễn cưỡng, chỉ là ở đây có chút thuốc tên là Huyết Kiệt, loại thuốc này tôi mua ở nước ngoài, là thứ hiếm có trên đời, vậy nên hy vọng ngài hãy nhận lấy nó”. Lý Thời Miễn đành nhận vị thuốc Huyết Kiệt này.
Vài năm sau, Lý Thời Miễn đảm nhiệm chức quan Ngự sử (chức quan ở gần vua giữ việc can ngăn vua). Một lần trên triều ông đã thẳng thắn can ngăn làm hoàng đế Minh Nhân Tông nổi giận, hoàng đế lệnh cho quân sĩ dùng chiếc chuỳ nặng 9 cân đánh ông bán sống bán chết, gãy cả xương sườn, sau đó ông bị đày vào nhà tù nơi cẩm y vệ cai quản. Vừa hay ông gặp lại vị quan Thiên hộ đang làm chức vụ cai ngục tại đây, vị quan Thiên hộ kinh ngạc nói: “Có phải ông là Lý tiên sinh đảm nhiệm chức quan Hàn Lâm không, thánh chỉ của hoàng đế đâu có nói bắt ông phải chết ở nơi này đâu!”. Vì thế vị quan Thiên hộ đã bí mật gọi thầy thuốc tới xem tình trạng của Lý Thời Miễn, vị thầy thuốc sau khi xem xong nói rằng: “Tình trạng của ông có thể chữa được, nhưng cần phải dùng đến một loại thuốc tên là Huyết Kiệt, mà đây lại là thứ rất khó kiếm được”. Vị quan Thiên hộ nói: “Vừa may ở nhà Lý tiên sinh lại có thuốc Huyết Kiệt này”. Nói rồi, ông nhanh chóng phái người đến gặp phu nhân của Lý Thời Miễn và lấy được thuốc Huyết Kiệt. Nhờ được chữa trị kịp thời, Lý Thời Miễn đã có thể bảo toàn tính mạng. Không lâu sau hoàng đế Minh Tuyên Tông lên ngôi, đã khôi phục lại chức quan cho Lý Thời Miễn.
(Trích Hình Thế Ngôn – sách do Lục Nhân Long viết vào cuối triều nhà Minh)
Chú thích của người dịch: [1]: Thiên hộ – tên một chức quan võ, đặt ra từ thời nhà Nguyên (Trung Quốc), đứng đầu 1.000 binh, giữ việc phòng vệ địa phương.
Dịch từ:
http://zhengjian.org/zj/articles/2007/3/13/42722p.html
http://www.pureinsight.org/node/4488
Tác giả: Nhất Đẩu
[ChanhKien.org]
Vào thời nhà Thương, Tây Bá hầu Cơ Phát [1] xem trọng chiêu hiền đãi sĩ, lấy đức trị quốc, khiến cho vùng Tây Kỳ được cai quản rất tốt. Khi người nước Ngu và người nước Nhuế xảy ra tranh chấp, bởi vì hai nước không thể giải quyết nên đã cùng tìm đến Tây Bá hầu nhờ ông xét xử. Khi người nước Ngu và người nước Nhuế đặt chân tới vùng Tây Kỳ thấy rằng người dân nơi đây nhường đất trồng cho nhau, người đi đường đều nhường khiêm kính người già. Người của hai nước Ngu và người nước Nhuế thấy thế nói với nhau rằng: “Điều mà chúng ta tranh giành chính là điều mà người ở đây cho là một sự ô nhục, chúng ta còn tìm Tây Bá hầu làm gì, chỉ là làm nhục chính mình mà thôi”. Thế là họ theo đường cũ trở về, người dân hai nước nhường nhịn lẫn nhau, không còn xảy ra tranh chấp.
Có người vì vậy đã nói với Trụ Vương rằng: “Tây Bá hầu tích đức hành thiện, khiến cho các nước chư hầu đều noi gương ông ta, điều này sẽ không có lợi cho ngài”. Trụ Vương từ đó đã giam Tây Bá hầu vào trong nhà ngục.
(Trích từ Sử ký)
Chú thích của người dịch:
[1] Cơ Xương (1152 TCN – 1046 TCN), còn hay được gọi là Chu Văn Vương, vua nước chư hầu Chu cuối thời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đã xây nền móng triều đại nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. (Nguồn: Wikipedia).
Dịch từ:
Hàn Tín ( theo Wikipedia) |
Tác giả: Thần Quang
[ChanhKien.org]
Cổ nhân bình luận về Hạng Vũ, gọi ông là “bách chiến bách thắng, không thể ngăn cản”, “Hạng Vũ thần dũng, thiên cổ không có hai”. Quay trở về lịch sử, có thể thấy rằng lời này không hề giả dối. Trong trận chiến Cự Lộc quyết định vận mệnh triều Tần, Hạng Vũ chỉ dẫn theo bốn vạn quân Sở đánh chín trận thắng cả chín, đại phá bốn mươi vạn quân Tần. Theo như “Sử ký” ghi chép lại, quân Sở ai cũng lấy một địch mười, đại phá bốn mươi vạn quân Tần. Trận chiến Bành Thành giữa quân Sở và quân Hán sau này, Hạng Vũ nhận được tin Lưu Bang suất lĩnh năm mươi sáu vạn liên quân, đã chiếm cứ được Bành Thành, Hạng Vũ liền đích thân dẫn ba vạn quân tinh nhuệ, từ đất Tề tức tốc hành quân nghìn dặm, quay lại cứu Bành Thành, đại thắng quân Hán, khiến cho quân Hán thua trận chết hai mươi mấy vạn người. Nếu không nhờ có Hàn Tín thống lĩnh những binh mã già yếu ở Quan Trung kịp thời đuổi đến Huỳnh Dương, đánh lui quân Sở, thì hậu quả sẽ khôn lường. Một vị chiến thần dũng mãnh nghìn năm có một như Hạng Vũ, nếu không phải binh tiên Hàn Tín thì có lẽ không ai có thể địch nổi. Người đời sau bình luận rằng: “Luận binh không ai qua được Tôn Vũ, dùng binh không ai qua được Hàn Tín”. Hàn Tín dùng binh có lúc không phù hợp với binh pháp Tôn Tử. Chẳng hạn như, binh pháp viết: “Quân đông gấp mười thì bao vây, gấp năm thì tấn công, đông gấp hai thì chia ra mà đánh”.
Quân Hán tại Cố Lăng bị Hạng Vũ đánh cho đại bại. Lưu Bang mời Hàn Tín dùng binh, Hàn Tín chỉ dùng quân đông gấp ba lần vây chặt mười vạn quân dũng mãnh của Hạng Vũ (Binh pháp viết, quân đông gấp mười thì bao vây. Vậy mà Hàn Tín chỉ cần dùng quân đông gấp ba lần là có thể vây chặt được Hạng Vũ, lạ thay!), hơn nữa còn dùng kế sách “tứ diện Sở ca” đại thắng quân Sở. Nhờ chiến thắng đó mà triều Hán được tạo dựng. Do đó, công lao tạo dựng Triều Hán thuộc về Hàn Tín, không có Hàn Tín, Hán có thể thắng Sở hay không, cũng rất khó nói. Tuy rằng, triều Hán có Trương Lương, Tiêu Hà, Trần Bình và các mưu sĩ khác, những người họ tuy có cái tài của tể tướng, nhưng lại không có năng lực của tướng soái, mà một thân Hàn Tín lại có đủ toàn tài của “vương, hầu, tướng, soái”. Vì thế nhắc đến thời kỳ Hán Sở, mọi người bình luận Hàn Tín “quốc sĩ vô song”, “công cao vô nhị, lược bất xuất thế”. Không chỉ có vậy, Hán Tín càng là một người giỏi dùng binh. Ông từng can ngăn để Hạng Vũ không chôn sống hai mươi vạn quân Tần. Mao Khôn thời Minh bình luận Hàn Tín như sau: “Nghiên cứu những binh gia lưu truyền từ xưa cho đến nay, có thể coi Hàn Tín là giỏi nhất, dùng thùng gỗ để phá quân Ngụy, dùng cờ đỏ của quân Hán phá quân Triệu, dùng bao cát phá quân Tề, đó đều là những kế sách đều như từ trên trời rơi xuống, mà không cần phải quyết chiến đổ máu với kẻ địch”. Qua câu cuối cùng của đoạn văn, có thể thấy được, Hàn Tín mỗi lần chiến đầu đều dùng kế lạ, để giảm thương vong đến mức tối thiểu.
Nếu như thoát khỏi tầng diện lịch sử của con người mà nhìn, sự xuất thế của Hàn Tín là do thiên ý an bài, toàn bộ quá trình lịch sử từ lúc ông phải chịu cái nhục chui háng cho đến khi được phong làm đại tướng quân, thống lĩnh quân Hán, ám độ Trần Thương, thu phục Quan Trung, thu được nước Ngụy, Đại, Triệu, Yên, Tề, cuối cùng là diệt Sở hưng Hán, quá trình đó khiến cho rất nhiều người nhớ đến cái tên Hàn Tín, đã kết nên mối thiện duyên để ngày nay đắc Pháp.
Chú thích: Toàn bộ bình luận của Mao Khôn thời Minh luận về Hàn Tín như sau: “Nghiên cứu những binh gia lưu truyền từ xưa cho đến nay, có thể coi Hàn Tín là giỏi nhất, dùng thùng gỗ để phá quân Ngụy, dùng cờ đỏ của quân Hán phá quân Triệu, dùng bao cát phá quân Tề, những kế sách đều như từ trên trời rơi xuống, mà không cần phải quyết chiến đổ máu với kẻ địch. Từ xưa đến nay, văn tiên có Thái Sử Công, thi tiên có Lý Bạch, từ phú tiên có Khuất Nguyên, tửu tiên có Lưu Nguyễn, còn binh tiên thì có Hàn Tín.”
Ảnh minh họa từ Pinterest |
Đàm luận về sự biến chuyển của vai trò người mẹ từ xưa đến nay
Tác giả: Dương Kỷ Đại
[ChanhKien.org]
Phụ nữ thời nay một khi trở thành vợ, thành mẹ rồi, đều luôn cảm thán rằng: “Làm mẹ thật khó!”. Kết cấu của xã hội thời xưa thì phần lớn đàn ông lo việc bên ngoài, còn phụ nữ lo việc bên trong, chỉ cần trông nom gia đình tốt, làm tốt bổn phận ở bên trong thì đã được tính là tận hết trách nhiệm rồi. Thuận theo sự thay đổi của thời đại, nữ quyền tăng cao, thế là phụ nữ lần lượt bước ra khỏi gia đình, bắt đầu kiêm cả việc bên ngoài lẫn việc bên trong để cho cuộc sống vật chất sinh hoạt được đầy đủ tiện nghi bằng việc có hai thu nhập (của chồng và của vợ). Hệ lụy đi cùng với đó là, người phụ nữ cũng phải chịu đựng hoàn cảnh khắc nghiệt hơn từ áp lực công việc căng thẳng, tinh thần và sức lực hao tổn quá độ, bận không thoát ra được. Đây là sự trả giá quá đắt cho sự hưởng thụ vật chất.
Cùng nhìn lại vào thời kỳ Tiên Tần, thời mà kết cấu xã hội khá đơn giản, quan hệ giữa người với người tương đối đơn thuần, phụ nữ có nhiệm vụ làm sao để giữ tròn vai trò của người mẹ, ngoài những câu chuyện quen thuộc với mọi người như chuyện “Mạnh mẫu tam thiên” (Mạnh mẫu ba lần chuyển nhà) và chuyện “đoạn cơ giáo tử” (chặt vải khung cửi để dạy con), còn lưu truyền một câu chuyện “Điền mẫu giới tử” (Điền mẫu khuyên bảo con) làm cảm động lòng người như sau:
Nước Tề thời Chiến quốc, dân giàu nước mạnh, được các chư hầu liệt vào một trong những nước lớn có quốc lực mạnh ở Trung Quốc thời đó. Thời Tề Tuyên Vương chấp chính, ông đã phong Điền Tắc làm tể tướng, thi hành nền chính trị thanh minh, quan lại liêm khiết. Tuy nhiên, mọi người đều cho rằng hết thảy những vinh hiển này là nhờ phương pháp dạy con của mẹ Điền Tắc.
Một ngày, Điền Tắc ngồi trên xe về nhà. Giống như mọi ngày, việc đầu tiên của ông là tới cao đường vấn an mẹ. Mẹ của Điền Tắc vốn là người giỏi việc quan sát lời nói và vẻ mặt của người khác, bà luôn có thể từ biểu hiện và ngữ khí của con mà nhìn ra được tình hình một ngày làm việc nơi triều chính của con mình. Sau khi Điền Tắc thăm hỏi mẹ, trên mặt ông biểu lộ dáng vẻ vui mừng, rồi thuận từ tay áo lấy ra hàng trăm dật vàng [1], hai tay dâng lên: “Số vàng này con xin dâng tặng lên mẹ”. Điền mẫu thân trông thấy vàng nhiều như vậy, bỗng nhiên sinh lòng hoài nghi. Vẻ mặt bình tĩnh hỏi: “Con mới làm tể tướng được ba năm, bổng lộc chưa bao giờ nhiều thế này. Đây là quân vương khen thưởng sao? Hay là các quan hối lộ vậy?” Điền Tắc im lặng không dám lên tiếng. Điền mẫu thân thấy vậy trong lòng đã biết được đến bảy tám phần, liền nghiêm túc hỏi: “Con vì sao lại không trả lời vậy?”
Điền Tắc vốn là tướng của nước Tề, mặc dù ở cung đình, không ai dám phạm đến uy nghiêm của ông, nhưng khi ở nhà lại luôn sợ những lời răn dạy nghiêm khắc của mẹ. Ông trước giờ cũng không dám lừa dối mẹ nên đã thành thật nói với mẹ về nguồn gốc của số vàng ấy. Nguyên lai là do một vị quan chức vì không làm tròn trách nghiệm, hy vọng Điền Tắc ở trước mặt Tề Vương nói đỡ vài lời, cầu xin được bỏ qua, cho nên đã lén lút đưa số tiền vàng này cho ông. Điền Tắc lúc đó khăng khăng cự tuyệt, nhưng vị quan này cứ mãi không buông, còn nói đó là để hiếu kính với mẹ Điền Tắc. Điền Tắc là một người con hiếu thảo, cuối cùng bất đắc dĩ cũng đành nhận.
Điền mẫu nghe xong, nghiêm mặt nói: “Con trai nghe này, con nhận hối lộ của cấp dưới, đó là bất thành bất nghĩa, bất trung bất hiếu! Ta nghe nói rằng kẻ sĩ nghiêm khắc tu sửa bản thân, giữ mình trong sạch, không nhận của cải tùy tiện; chính trực thẳng thắn, không làm việc giả dối. Việc bất nghĩa không chứa trong tâm, của cải bất nhân không nhận vào nhà, lời nói và việc làm như một, nội tâm thế nào biểu hiện ra ngoài sẽ như thế. Con nhận hối lộ, vì để cho người ta thoát khỏi bị trách tội, nhưng lại làm hại đến quốc pháp, đây là hành vi không trung thực cũng là đánh mất đi lễ nghĩa! Ngày nay quân vương để con làm tướng quốc nước Tề, hưởng thụ bổng lộc hậu hĩnh, nhưng mà ngôn hành của con có thể báo đáp sự tin tưởng và ân tình của quân vương không? Làm trọng thần của đất nước, ở đâu làm gì cũng cần phải làm gương cho các quan khác, việc của quân vương như việc của cha, cần phải tận tâm hết khả năng, trung tín không lừa dối, coi việc trung thành đến chết là nghĩa vụ bản thân, chấp hành mệnh lệnh của quân vương và pháp luật quốc gia, cần phải công chính liêm khiết, như thế sẽ không có tai họa nào xảy đến. Nhưng mà hiện tại con rời quá xa trung nghĩa rồi. Làm thần tử mà bất trung, chẳng khác nào làm một đứa con bất hiếu, lấy danh nghĩa mẹ mà nhận của cải bất nghĩa của người, thực tế là làm việc bất nghĩa mà hãm hại đến người thân. Cho nên con vừa không phải bậc trung thần, vừa không phải một đứa con có hiếu! Đứa con bất hiếu này, không phải con của ta, lập tức hãy cút khỏi cái nhà này!” Nói xong, Điền mẫu thân tay vịn quải trượng, tức giận trở về phòng cũng không ngoảnh đầu nhìn lại.
Điền Tắc nằm rạp xuống đất, khuôn mặt đầy vẻ xấu hổ, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, chỉ ước có thể chui đầu xuống đất. Đợi sau khi mẫu thân rời khỏi sảnh đường, ông lập tức sai người đánh xe đem vàng trả lại cho cấp dưới, mãi đến tối mới về. Hôm sau, Điền Tắc lên triều, diện kiến Tề Tuyên Vương và khẩn cầu xin được trị tội, bãi miễn và cách chức bản thân mình.
Tuyên Vương sau khi phái người dò hỏi, biết được đầu đuôi sự việc, đã tấm tắc tán thưởng khí phách và mẫu đức của Điền mẫu không thôi. Ông đích thân đến phủ thăm hỏi Điền mẫu, hầu cận đi theo cũng từ tận đáy lòng kính nể đối với bà. Tuyên Vương nói với quần thần rằng: “Có hiền mẫu thì tất có lương quan! Mẫu thân của tướng quốc hiền đức như vậy, ta không còn phải lo lại trị (tác phong và uy tín của quan lại) của nước Tề ta không trong sạch”. Ông đứng trước mặt Điền mẫu, biểu dương phẩm đức quang minh lỗi lạc biết hối cải nhận tội của Điền Tắc, nên đã đặc xá cho tội lỗi của Điền Tắc, khôi phục tướng vị, cũng tự mình ban tặng vàng cùng vải vóc cho Điền mẫu, để biểu thị tấm lòng tôn kính với Điền mẫu.
Từ đó về sau, Điền Tắc càng thêm chú ý tu thân bảo trì sự trong sạch, vì thế mà trở thành vị tướng quốc rất có thành tựu thời kỳ Chiến Quốc.
Mặc dù môi trường thời xưa và nay có sự khác biệt lớn, nhưng trách nhiệm làm mẹ thì đều giống nhau, đều cần phải giúp đỡ chồng và dạy dỗ con cái, vả lại cần chú trọng tới việc lấy mình làm tấm gương để giáo dục hơn là giáo dục bằng lời nói, thời thời khắc khắc cần phải chú ý ngôn hành, cử chỉ của bản thân, cần cảnh giác giữ gìn đạo đức phẩm hạnh của mình. Chỉ là do thời xưa chưa từng có xã hội hỗn loạn như bây giờ, lòng người không có phức tạp như bây giờ, không có ao sâu dục vọng khó lấp đầy như bây giờ, cũng không có hưởng thụ vật và sự hấp dẫn bên ngoài cao độ như bây giờ. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã phá vỡ sự đơn thuần của môi trường sống, từ đó dẫn đến các vấn nạn của xã hội, làm gia tăng thêm độ khó đến mức cao nhất của việc diễn tròn vai trò một người mẹ tốt! Nhưng cũng có không hề ít những bà mẹ có tâm, đang kiên trì mò mẫm, trong khi dụng tâm mà có thu hoạch, họ là nhóm người thầm lặng, là nhóm người khiến người ta phải cảm phục.
[1] 1 dật là khoảng 20 lượng vàng (có cách nói là 24 lượng vàng)
Dịch từ: https://www.epochtimes.com/gb/7/9/3/n1822494.htm
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4886
Theo Chanhkien.org
CÁCH NHẬP COMMENT TRÊN HƯƠNG QUÊ NHÀ
Đầu tiên, nhấp chuột vào ô Nhập nhận xét của bạn rồi viết comment. Viết xong, nhấp chuột vào ô Tài khoản Google. Sau đó nhấp chuột vào Tên/URL thì sẽ hiện ra 2 ô. Ô phía trên, ghi Họ và tên của bạn. Ô phía dưới, ghi dòng chữ:huongquenha.com
Cuối cùng, nhấp chuột vào ô Tiếp tục và nhấp chuột tiếp vào ô Xuất bản là xong. (Nếu bạn đã có sẵn Tài khoản Google, thì sau khi viết comment, chỉ cần nhấp chuột vào ô Xuất bản là thành công)