Home » Archives for tháng 2 2023
(Đọc TÌNH YÊU VĨNH CỬU của TRẦN THIÊN HƯƠNG)
Một cuốn tiểu thuyết dày dặn gần 600 trang, bìa cứng, trình bày trang nhã với cái tên nghe rất quen thuộc như đã từng gặp ở đâu đó: TÌNH YÊU VĨNH CỬU của Trần Thiên Hương đã nằm trên bàn đọc sách của tôi gần nửa tháng.
Nhưng vì đây là sách được tặng nên phải đọc và sẽ đọc kỹ, đó là thói quen của tôi. Và, tôi đã đọc đi, đọc lại để nhận ra rằng tác giả gởi vào những cuộc tình trai gái là một tình yêu lớn lao: tình yêu quê hương đất nước.
Sách được chia làm 2 phần:
Khi chim én bay về (Phần 1) và Tình yêu vĩnh cửu (Phần 2) được tái hiện tình yêu và số phận nhiều nhân vật suốt thời gian gần thế kỷ với ba thế hệ trong một gia đình mà Julie Kiều Trang là sợi chỉ xuyên suốt tác phẩm. Người đọc dễ đuối sức khi dõi theo thế giới nhân vật hội đủ mọi tầng lớp xã hội; hội đủ sắc thái tình cảm nhân sinh; đa dạng, đông đảo trong quãng thời gian dài gần thế kỷ.
Phần I: KHI CHIM ÉN BAY VỀ hay MÙA XUÂN LẠI ĐẾN.
Ba nhân vật Chiêu, Jonathan và Julie Kiều Trang trái nghịch nhau về hoàn cảnh, quan điểm, suy nghĩ nhưng họ cuốn vào vòng xoáy của tình yêu trong bối cảnh, không gian của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Lịch sử đã làm cái phông nền cho tình yêu của ba người nẩy nở và từ tình yêu của họ người đọc thấy được những điều lớn lao: tình yêu Tổ quốc, gia đình; khát vọng về hòa bình, độc lập và giữ gì nét văn hóa của dân tộc.
Jonathan, một tổng biên tập có trách nhiệm, chân tình và giàu tình cảm đã thầm yêu Kiều Trang, một nữ ký giả thông minh, sắc sảo. Anh không mệt mỏi theo đuổi nàng nhưng đến lúc ngỡ rằng đã nắm bắt được tình yêu thì mối tình ấy cùng cuộc đời anh đã chìm xuống đáy đại dương. Với Kiều Trang thì chưa chắc đó là tình yêu nam nữ mà là “… một niềm yêu mến vừa len lỏi trong tim nàng, nó chưa hình thành, mới chỉ khiến trái tim nàng hơi rung động.” (trang 130). Cuộc tình ấy kết thúc không có hậu từ lúc nàng nghe trọn lời Jonathan: “Kiều Trang… Tôi yêu em!...”.
Chiêu thì khác. Anh xuất thân từ tầng lớp trung nông, tham gia chống Pháp với tài đúc súng trường nhưng thông minh, ham học hỏi, dũng cảm. Anh được cụ Hoàng Hoa Thám tin cẩn và trọng dụng. Anh có một tình yêu vô cùng lớn lao là yêu tổ quốc; yêu quê hương xứ sở; yêu độc lập. tự do mà không tiếc máu xương, gian khổ. Anh cũng cảm mến Kiều Trang vì sắc đẹp và nét đoan trang nhưng biết “cô ta không bao giờ thuộc thế giới của mình nên cũng quên đi” (trang 185). Nhưng cuộc sống có lối đi riêng của nó nên Chiêu đã gặp lại Kiều Trangtrong lớp học của nàng. Và, tình yêu của anh với nàng bắt đầu nẩy nở; rất logic, không khiên cưởng gượng ép dẫu rằng tưởng chừng như tác giả đã sắp xếp cho hai người gặp nhau.
Julie Kiều Trang sinh ra và lớn lên trong một gia đình quyền quý, hiền lành, đoan trang, thông minh, sắc sảo có việc làm ổn định và thành công trong công việc của mình. Kiều Trang phải đắn đo lựa chọn giữa hai người trai đáng ngưỡng mộ. Một Jonathan “… là người Pháp nhưng anh ta không cầm súng mà cầm bút. Anh ấy biết lẽ phải. Sứ mệnh của anh ta là sang đây là bênh vực lẽ phải.” (Trang 73).
Một anh Chiêu “có một vóc dáng nam nhi mạnh mẽ, với bờ vai rắn chắc, đôi mắt đen sâu thẳm, sống mũi cao trên khuôn mặt cương nghị. Tất cả toát lên một vẻ đẹp đầy kiêu hãnh” (Trang 184). Cuối cùng “tình yêu đến có bao giờ báo trước, nó có cần điều kiện gì đâu” (Trang 185) nhưng trong thẳm sâu tình cảm, nàng đã lựa chọn con đường trở về với quê hương xứ sở đang còn trong loạn lạc, đói nghèo; khước từ một gia sản lớn và cuộc sống vương giả mà ai cũng ao ước. Sống trong lòng tổ quốc Kiều Trang đã phát sinh và nẩy nở tình yêu với Chiêu. Đó là mổi tình đẹp của hai tâm hồn cùng chí hướng: Phụng sự cho quê hương! Chiêu đã chiếm lĩnh tình cảm Kiều Trang từ lần đầu gặp nhau khiến nàng bồi hồi, xao xuyến trước hành động ngang tàng và bí hiểm của chàng. Kết thúc phần này là cái chết của Chiêu khiến cho cuộc tình Kiều Trang thêm một lần bi thương, một lần nữa lặp lại bi kịch của tình yêu. Vẫn biết “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!”, nhưng người đọc vẫn thấy xót xa, hụt hẫng trước mối tình đẹp mà không trọn vẹn. May là còn có cậu bé An…
Dõi theo câu chuyện tình lãng mạn nhưng bi thương của đôi trai tài gái sắc trong bối cảnh đất nước đang bị kẻ thù xâm lược dày xéo, người đọc bắt gặp một mảng lịch sử hào hùng, bi tráng và một nền văn hóa của dân tộc ta cách đây hàng trăm năm. Cuộc tình của Chiêu và Kiều Trang éo le nhưng lại phù hợp với thời đại: Rất riêng tư nhưng thống nhất trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tác giả không hề trực tiếp miêu tả những cuộc chiến giữa nghĩa quân Đề Thám và thực dân Pháp nhưng người đọc vẫn thấy sự khốc liệt của cuộc chiến; sự gian khổ, không nề hy sinh của nghĩa quân; sự bần cùng và thất học của đại đa số người dân… Cũng như người đọc theo dấu chân Kiều Trang thì thấy sự đa dạng, phong phú của các nền văn hóa. Thêm một lý do để ta yêu quý Kiều Trang là người con gái quý phái, có học thức ấy đã đồng cảm, yêu thương, giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, khốn khó đang quằn quại sống dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp. Kiều Trang như một chiến sĩ trong mặt trận văn hóa mà không trực diện với kẻ thù. Có lẽ nhờ vậy mà tác giả có những trang rất thăng hoa khi kể về mối tình của nàng và Chiêu.
Đọc hết phần I mới chợt nhận ra tiêu đề cho phần này có tính ẩn dụ cao. Hình ảnh chim én báo hiệu mùa xuân đất trời và cũng là mùa xuân của dân tộc lại xuất hiện khi Chiêu bị thương “Đôi mắt anh dần dần khép lại, trong đáy mắt vẫn in hình bóng của nàng cùng bầu trời chim én bay…” (Trang236). Còn Kiều Trang vẫn âm thầm tạo cho mình một mùa xuân tình yêu đôi lứa: Bé An ra đời và ghi dấu một tình yêu vĩnh cửu.
PHẦN II: TÌNH YÊU VĨNH CỬU hay TRONG TRO CÒN LỬA
Khi đã đọc hết phần I, độc giả không thể gấp sách. Bởi “Đời người đâu phải chỉ có một mối tình duy nhất, nếu chỉ một thì người ta còn nói mối tình đầu hay cuộc tình cuối làm gì! Cái chết gieo mầm cho sự sống, và tình yêu cũng không ngoại lệ. Mối tình xưa đã lụi tàn nhưng ngọn lửa yêu đương trong tim vẫn còn âm ỷ cháy…” (Trang 545), và Kiều Trang đã làm chất xúc tác cho tình yêu bùng lên hai thế hệ tiếp theo. Tình yêu tổ quốc và tình yêu trai gái lặp lại trong gia đình Kiều Trang.
Ông An, con trai của Kiều Trang và Chiêu, được tổ chức cài cắm vào lòng địch theo đoàn người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Anh nối tiếp lòng yêu nước của gia đình, tiếp tục hoạt động cách mạng với kẻ thù mới: Giặc Mỹ. Ông đã làm tốt nhiệm vụ của mình cùng với những đứa con.
Thời đại đã khác nên tư tưởng tình cảm của mỗi người cũng khác nhưng lòng yêu nước vẫn là mẫu số chung cho các thành viên trong gia đình. Bảo Toàn, con của ông An; cháu nội của Kiều Trang, đã chịu xã hội chi phối trở thành Trung úy quân đội Việt Nam Cộng hòa nhưng vẫn giữ được truyền thống yêu nước của gia đình được bà nội Kiều Trang xe duyên cùng cô bác sĩ xuất thân nghèo khó khiến những nhân vật trong tiểu thuyết đa dạng hơn trong các chiến tuyến khác nhau.
Nguyên Anh được sống trong thời kỳ đất nước tái thiết và xây dựng; giặc ngoại xâm không còn nữa. Cô không bị xã hội chi phối nhiều nên có thể tự khám phá cuộc sống; khám phá bản thân; tự đi tìm tình yêu cho mình. Và, cô đã gặp được tình yêu đích thực với Thuyên, người con trai đã trải qua bao sóng gió cuộc đời.
Ba thế hệ của một gia đình, mà Kiều Trang là nhân vật xuyên suốt, đã sống và hoạt động kéo dài qua ba thời kỳ: Chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng đất nước, tạo nên những tuyến nhân vật đa cực, đa dạng; đủ mọi tầng lớp trong xã hội thành một dòng chảy liên tục về truyền thống yêu nước vĩnh cửu. Câu chuyện tình yêu và số phận của họ đã gắn liền với lịch sử. Mỗi người có cách nhìn nhận riêng về cuộc sống, về tình yêu nhưng cuối cùng ai cũng nhận ra hạnh phúc nhất là được sống với hiện tại. “Ta đã từng đi qua những niềm đau và cả cay đắng, mãi tìm hạnh phúc ở những nơi xa lắc, nhưng không ngờ rằng hạnh phúc ngay ở đây!”(Trang 555). Thời đại nào thì cuộc sống ấy, không thể khác! Nhưng tình yêu tổ quốc và tình yêu trai gái thì… vĩnh cửu!
KẾT
Hình ảnh những người kháng chiến chống Pháp xuất hiện từ đầu tác phẩm khiến người đọc nghĩ ngay rằng đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử. Còn tôi nghĩ thêm rằng tác giả Trần Thiên Hương đang giải thiêng những huyền thoạitrong lịch sử. Tất cả đều là sự phỏng đoán không chính xác khi đọc hết tác phẩm.
Lịch sử được chắt lọc trong tác phẩm chỉ là cái phông nền cho tác giả cho các nhân vật của mình hoạt động, bộc lộ những phẩm chất yêu nước, yêu người của mình. Mỗi giai đoạn lịch sử, tình yêu có thay đổi cho phù hợp nhưng tựu trung là cống hiến; không nề gian khổ; sẵn sàng hy sinh vì tình yêu. Tôi cho rằng Trần Thiên Hương đã thành công trong việc xây dựng tập thể nhân vật của mình mà trung tâm là nhân vật Julie Kiều Trang. Tình yêu của nàng và con cháu đã mềm hóa lịch sử vốn khốc liệt, tàn khốc, tang thương. Tác giả cũng đã biết chọn lối kể chuyện truyền thống theo thời gian vật lý kết hợp với thời gian đồng hiện để tránh sự cũ mòn theo kiểu tiểu thuyết chương hồi. Tôi tin Trần Thiên Hương sẽ thành công hơn nữa trên con đường văn chương. Còn hạn chế của tác phẩm ư? Người đọc sẽ tìm ra đáp án khi đọc: TÌNH YÊU VĨNH CỬU của Trần Thiên Hương in vào tháng 12/2022 do NXB Hội Nhà văn cấp phép
N.V.C
Tranh tường vẽ Đường Thái Tông (ở giữa) niêm đại 642, tại hang số 220, Đôn Hoàng, Cam Túc. ( Wikipedia)
Tác giả: Lưu Như
[ChanhKien.org]
Chúng ta ngày nay thường cho rằng xã hội pháp quyền là xã hội lý tưởng hoàn thiện nhất, nhưng lại không biết rằng pháp quyền mà mất đi cốt lõi nền tảng đạo đức thì sẽ đi đến cùng đường mạt lộ. Hiện tại quy định pháp luật trong xã hội càng ngày càng nhiều, nhưng nhân tâm lại đang càng ngày càng bại hoại, những hiện tượng hỗn loạn trong xã hội xuất hiện không ngừng, cho thấy mặt hạn chế chỉ trị được ngọn mà không trị được gốc của pháp luật. Pháp luật chỉ có thể làm phương tiện phụ trợ cho việc giáo hóa đạo đức. Tư tưởng trị quốc lấy đức làm gốc và bổ trợ bằng pháp luật này đã được miêu tả rõ ràng trong chương “Luận công bình” của [Trinh Quán chính yếu], cho thấy kiến thức anh minh sáng suốt của các Quân vương thần tử Trung Quốc cổ đại. Mà những kiến thức này là được vun bồi từ nền giáo dục truyền thống lấy đạo đức làm trung tâm.
Trong “Luận công bình” đã ghi chép chân thực về việc Ngụy Trưng viết một bản tấu chương lên Đường Thái Tông, trong đó có đoạn phân tích rất rõ ràng quan hệ giữa pháp luật và đạo đức; đọc xong đoạn văn này, chúng ta sẽ hiểu được pháp luật nên được dùng như thế nào và trị quốc như thế nào mới là cao minh nhất. Để độc giả tiện theo dõi, chúng tôi đã chia nguyên văn thành nhiều đoạn để các bạn lĩnh ngộ được cặn kẽ tư tưởng trị quốc của vị hiền thần này.
Đoạn Thứ nhất:
Thần (Ngụy Trưng tự xưng) nghe nói, về sự cao thượng và sâu dày của đạo đức, không người nào có thể vượt qua Hoàng Đế và Nghiêu Đế; về sự vĩ đại của lòng nhân nghĩa, không người nào có thể so được với Thuấn Đế và Đại Vũ. Nếu muốn kế thừa phong phạm của Hoàng Đế và Đường Nghiêu, đi theo bước chân của Ngu Thuấn và Đại Vũ, thì chỉ có thúc đẩy đạo đức nhân nghĩa, cử hiền tài mà bổ nhiệm, nghe thiện ngôn mà trị lý đất nước. Nếu như không thể tuyển chọn người hiền tài có đạo đức cao thượng, mà đem chính quyền ủy thác cho người thế tục không có kiến thức, bởi vì họ không có tầm nhìn và trí tuệ, sẽ khiến quốc gia mất đi nền tảng gốc rễ. Họ chỉ có thể thực thi pháp luật hà khắc để nhanh chóng khống chế bách tính và thiên hạ, như vậy sẽ tuyệt đối không thể đạt được “vô vi nhi trị” như các vị tiên cổ thánh vương thời xưa. Cho nên quân chủ thánh minh trị lý thiên hạ sẽ lấy việc sửa đổi phong tục [xấu] làm gốc, mà không dựa vào hình phạt nghiêm khắc, chính là thực thi hai chữ “nhân nghĩa”, không có “Nhân” thì không thể triển khai rộng rãi toàn thiên hạ, không có “Nghĩa” thì không thể tự ngay chính bản thân, dùng Nhân để thi ân khắp thiên hạ, dùng Nghĩa để ngay chính bản thân, như vậy các việc chính sự của quốc gia có thể không cần dùng pháp luật nghiêm khắc mà vẫn có thể đạt được thái bình, giáo hóa có thể không cần quá nghiêm khắc mà vẫn có thành tựu. Cho nên mới nói Nhân Nghĩa là căn bản của việc trị quốc, còn hình phạt chỉ là phương pháp phụ trợ trong việc trị quốc. Trong việc trị quốc có thể dùng hình phạt, giống như việc điều khiển xe ngựa là không thể tránh khỏi phải dùng roi để điều khiển nó đi đúng hướng, nếu người dân đều minh tỏ thiện ác, từ đó tự giác đi trên con đường đúng đắn, như thế hình phạt là không còn chỗ đứng trong xã hội nữa; nếu ngựa có thể tự giác băng băng chạy đúng đường, như vậy roi vọt cũng không còn cần nữa. Từ đó có thể thấy rằng, hình phạt không thể khiến cho quốc gia đạt được thái bình từ gốc, đạo lý này là rất minh hiển.
Giải nghĩa đoạn Thứ nhất: Trách nhiệm của người làm vua và người làm cha
Kiến thức của Ngụy Trưng: Ngụy Trưng không hổ là bậc đại nho thông thái cao minh, ông hiểu được trách nhiệm trọng đại của người trí thức chính là lãnh đạo quốc gia, quy chính nhân tâm. Phương pháp dẫn dắt đất nước căn bản nhất chính là lấy đạo đức giáo hóa bách tính, để người dân hiểu được thế nào là đúng sai thiện ác. Nếu lòng người thiện lương tự nhiên sẽ không đi làm việc xấu nữa, quốc gia tự nhiên thái bình, hình phạt bất quá chỉ có thể cưỡng chế quy chính hành vi, nhưng không thể quy chính nhân tâm, vào lúc không ai thấy họ vẫn đi hành ác. Cho nên hình phạt không thể giải quyết tận gốc vấn đề.
Người xưa cho rằng người làm Đế Vương cũng như là cha của thiên hạ, mà bách tính là con dân, trong Tam Tự Kinh có câu “Dưỡng bất giáo, phụ chi quá” (tức là: nuôi mà không dạy, là lỗi của cha), vô luận là một gia đình nhỏ hay một quốc gia lớn thì vẫn là cùng một đạo lý, trách nhiệm giáo dục con cái là trách nhiệm được đặt lên hàng đầu của người làm vua và người làm cha. Người xưa coi việc giáo dục đạo đức, giáo dục nhân phẩm cho con cái quan trọng hơn sự thỏa mãn về vật chất. Do vậy những nho sinh, sỹ phu chân chính, đều phải hiểu được làm sao để trị quốc, làm thế nào để hướng dẫn các hoàng đế đời sau noi theo những tấm gương của các hoàng đế cổ đại như Nghiêu và Thuấn, khuyên răn họ noi theo đạo Nhân Nghĩa của Khổng Tử. Bởi vì nền tảng giáo dục của Khổng Tử chính là đang kế thừa và tuyên dương tinh hoa văn hóa trị quốc mà các Thánh vương thời cổ đại lưu lại, những văn hóa này đều lấy đạo đức làm trung tâm. Nếu rời khỏi những kiến thức này thì sẽ hình thành những pháp luật bất công bất nghĩa (ác pháp) để duy hộ tư dục cá nhân. Mặc dù nhất thời việc lấy ác trị ác này có hiệu quả, nhưng sau đó sẽ trở nên ngày càng tồi tệ hơn. Càng tệ hơn thì hình phạt sẽ càng ngày càng nghiêm khắc, và cuối cùng sẽ đi đến điểm kết.
Cho nên, Ngụy Trưng khuyên Thái Tông trị quốc tuyệt đối không để mất sự thống nhất thiên hạ, không nên dùng pháp luật mà rời bỏ đức, không nên chọn quan mà không xét đến đức. Nếu lấy đức làm gốc, pháp luật là ngọn để giáo hóa dân tâm, khiến cho bách tính hiểu được thiện ác để làm người, đó là trách nhiệm và nghĩa vụ lớn nhất của Hoàng Đế. Để làm được như vậy thì tuyển chọn người hiền năng có đức lớn làm quan là rất trọng yếu. Quản lý một quốc gia là việc quá lớn, đế vương cần phải biết cách nhìn nhận con người và dùng người, từ đó tuyển chọn người có đức có tài để trợ giúp giáo hóa bách tính, cùng nhau thay đổi phong tục, hoàn thành việc tốt lớn nhất này, như vậy chính là cách quản lý thành công nhất, vô vi nhi trị cao minh nhất, cũng chính là đi trên con đường thánh hiền trị quốc, thống lĩnh thiên hạ của các đế vương thời cổ đại. Đây là Vương đạo lấy đức trị quốc thực sự.
Nếu như tuyển dụng người phàm tục không có đức làm quan, tầm nhìn tất nhiên sẽ nông cạn, họ sẽ chỉ tập trung vào cái lợi trước mắt, không nghĩ sâu xa, như thế quốc gia tất sẽ càng trị thì vấn đề xuất hiện càng nhiều; không để ý gì đến đại cục, ác pháp sinh sôi, hậu quả không thể tưởng tượng. Cho nên Ngụy Trưng nói, từ nay không thể quên lời dạy của đức Thánh Vương, khuyên Thái Tông làm theo các vị Thánh Vương, cần biết bản thân mang trách nhiệm làm Đế Vương thì phải nắm chắc hai chữ Nhân Nghĩa, dùng Nhân ban ơn huệ, cảm hóa bách tính; lấy Nghĩa để chính bản thân, trở thành tấm gương, trên làm dưới noi theo. Làm được như vậy tự nhiên sẽ quy chính nhân tâm. Cho nên cần để các vị quan hiền năng cùng đồng tâm đồng trí với Đế Vương hoàn thành sự nghiệp giáo hóa đạo đức của Đế Vương.
Ở một tấu chương khác, Ngụy Trưng gọi đạo trị quốc lấy đạo đức giáo hóa làm gốc này là đồng đức; gọi sự quản lý của bọn gian thần vô đạo là kết đảng, (nguyên văn: phu dĩ thiện tương thành vị chi đồng đức, dĩ ác tương tế vị chi bằng đảng). Đây cũng chính là cốt cách thực sự của văn nhân thời cổ đại, cũng chính là lý do vì sao lại có cách nói “Nhân nhân chí sĩ” (Người có đức nhân và người sĩ có chí). Phàm là người được giáo dục nho giáo truyền thống và thực sự hiểu được chỉ dẫn chân thực của Khổng Tử thì sẽ minh bạch được rằng, sứ mệnh lớn nhất của người đọc sách chính là phải trở thành người quân tử nhân nghĩa, giúp đỡ đất nước truyền bá rộng rãi đạo nhân nghĩa, quy chính đạo đức xã hội trở nên cao thượng. Đây mới là nhiệm vụ trọng yếu của bậc quân vương và thần tử, cũng chính là mục đích căn bản của giáo dục từ xưa tới nay.
Bởi vậy, trong đoạn Thứ hai, Ngụy Trưng tiếp tục lấy cách nói của sách cổ để giúp Đế Vương hiểu được cái gốc trong việc trị quốc là ở chỗ giáo hóa đạo đức. Chớ nên lấy ngọn làm gốc, một mực dựa vào luật pháp để cai trị đất nước.
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/250586
CÁCH NHẬP COMMENT TRÊN HƯƠNG QUÊ NHÀ
Đầu tiên, nhấp chuột vào ô Nhập nhận xét của bạn rồi viết comment. Viết xong, nhấp chuột vào ô Tài khoản Google. Sau đó nhấp chuột vào Tên/URL thì sẽ hiện ra 2 ô. Ô phía trên, ghi Họ và tên của bạn. Ô phía dưới, ghi dòng chữ:huongquenha.com
Cuối cùng, nhấp chuột vào ô Tiếp tục và nhấp chuột tiếp vào ô Xuất bản là xong. (Nếu bạn đã có sẵn Tài khoản Google, thì sau khi viết comment, chỉ cần nhấp chuột vào ô Xuất bản là thành công)