NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM, SUY NGHĨ VỀ Ý NGHĨA CỤM TỪ: "LƯƠNG SƯ HƯNG QUỐC" - Bài của Nguyễn Hiếu Học



“Lương sư Hưng quốc” là cụm mỹ từ hàm súc, khẳng định vị thế của người thầy, và nghề dạy học. Suy rộng ra là vai trò quyết định của nền giáo dục đối với công cuộc phát triển đất nước. Có thể xem đây là một đúc kết khách quan từ những trải nghiệm về quá trình phát triển của đất nước cũng như hầu hết các nước tiên tiến hiện nay trên thế giới.
Đối với Việt Nam, một đất nước đã có mấy ngàn năm văn hiến, thấm nhuần truyền thống văn hóa: hiếu học, tôn sư trọng đạo từ lâu đời, cho nên vị thế người thầy, nghề thầy luôn được đề cao, coi trọng. Do vậy, sự trải nghiệm nói trên càng có thêm ý nghĩa. Dưới đây là đôi nét phác họa về những khuôn mặt “lương sư” tiêu biểu nhất trong lịch sử giáo dục nước nhà:

* Xử sĩ Võ Trường Toản và bốn chữ “Lương sư hưng quốc”:

Theo nhiều sử liệu, có lẽ người đã nhấn mạnh và đúc kết về mối quan hệ, tác động trực tiếp của vai trò người thầy, của chất lượng giáo dục với sự phát triển, hưng thịnh đất nước bằng bốn chữ thật cô đọng, mang tính khái quát cao vừa dẫn trên, là một nhà giáo dục sống cách nay khoảng hơn hai trăm năm. Đó là nhà giáo Võ Trường Toản (V.T.T) sống ở thế kỷ XVIII, vào thời Nguyễn sơ, người đã được Nguyễn Ánh ban cho hiệu: Gia Định xử sĩ Sùng đức Võ Tiên sanh. Sở dĩ ông có tôn hiệu này vì sinh ở đất Gia Định (huyện Bình Dương) và tuy học rộng tài cao nhưng V.T.T không muốn làm quan, chỉ thích ở ẩn (xử sĩ) và chăm lo việc dạy học. Có nhiều học trò của ông thành đạt, nhưng nổi tiếng hơn cả là ba vị môn đệ, được đương thời xưng tụng là “Gia Định tam gia thi” trong nhóm “Bình Dương thi xã”, gồm các danh sĩ, nhà thơ Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh và Lê Quang Định. Ông mất năm 1792, khi quân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Phan Thanh Giản cùng nhiều sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ cải táng đưa mộ ông về đất Bảo Thạnh nay thuộc tỉnh Bến Tre với ý nghĩa là không muốn để mộ thầy nằm trong vùng giặc chiếm.
Võ Trường Toản là một nhà giáo dục, là một danh sư có nhiều đóng góp và ảnh hưởng đến sự nghiệp giáo dục đào tạo ở đất Gia Định, phần đất mới phía Nam của Tổ quốc và là người có liên quan đến cụm từ nói trên, nên trong bài viết này ông được nhắc đến trước tiên.
Về ý nghĩa của cụm từ “Lương sư hưng quốc” có thể hiểu một cách đơn giản là đất nước muốn được phát triển giàu mạnh (hưng quốc) cần phải có những ông thầy xứng đáng, tài giỏi. Tài giỏi ở đây không phải là chỉ có nhiều tri thức chuyên môn, mà cần phải hội đủ những phẩm chất, đạo đức tiêu biểu mẫu mực, để có thể đào tạo được nhiều nhân tài, hiền tài cho đất nước.
Khi đúc kết và nhấn mạnh đến vai trò quyết định của các bậc “lương sư” trong công cuộc “hưng quốc”, chắc chắn nhà giáo V.T.T đã chiêm nghiệm về những gương sáng mẫu mực, tiêu biểu của các danh sư, quốc sư như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm… cũng như các hiền tài đi trước. Đồng thời tiên sinh cũng quan tâm đến những ưu điểm trong tư tưởng định hướng giáo dục, đào tạo của các thời thịnh trị ở nước ta trước đó, đặc biệt là ở triều đại Lê Thánh Tông  (1460-1497). Những ưu điểm đó đã được đúc kết một cách sâu sắc, thuyết phục qua bài khắc trên văn bia tiến sĩ được dựng đầu tiên (1484) tại Văn miếu Quốc tử giám (được xem là trường đại học sớm nhất của nước ta). Người nhận vinh dự soạn thảo nội dung bài khắc vào bia này là danh thần Thân Nhân Trung (1418-1499) và cũng có thể gọi ông là nhà chiến lược giáo dục tiên phong hàng đầu nước ta.
Trong lịch sử hơn một ngàn năm thời tự chủ, kể từ Ngô Quyền đến cuối triều Nguyễn, nước ta không thiếu những nhân tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhưng số nhân tài kể cả hiền tài ấy xuất hiện nhiều hay ít và đóng góp hiệu quả cho Tổ quốc đến mức độ nào, điều đó phần lớn tùy thuộc vào tầm nhìn và sách lược phát triển nền văn hóa giáo dục quốc gia của các vị minh quân, những người lãnh đạo, giữ trọng trách trong việc định hướng, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng, đãi ngộ nhân tài… Tất cả đã được đúc kết một cách cô đọng, được thể hiện trong nội dung văn bia tại Văn miếu Quốc tử giám và đã đi vào lịch sử văn hóa dân tộc từ hơn 5 thế kỷ trước (1484-2014).
Riêng trong lĩnh vực đào tạo, đất nước ta cũng không thiếu những vị danh sư, có thể gọi là Lương sư như tên gọi tôn vinh của nhà giáo V.T.T, đã góp phần xứng đáng vào công cuộc “hưng quốc” qua nhiều triều đại, thời kỳ trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước
Trong phạm vi một bài viết ngắn, dưới đây chúng tôi chỉ có thể nhắc đến một cách khái quát về một số nhà giáo, nhà giáo dục và một vài triều đại tiêu biểu nhất có nhiều ảnh hưởng đến các thế hệ người đi học, người dạy học kể cả các vị giữ trọng trách hoạch định sách lược đào tạo giáo dục của các triều đại đã qua. Theo đó, không thể không nhắc đến những tên tuổi như Chu Văn An (TK XIV), Thân Nhân Trung (TK XV), Nguyễn Bỉnh Khiêm (TK XVI), Võ Trường Toản (TK XVIII), Nguyễn Đình Chiểu (TK XIX) và Nguyễn Tất Thành… Riêng ở địa phương này có thể kể đến tên tuổi của một số nhà giáo tiêu biểu cho tinh thần yêu nước gắn bó, gần gũi với quê hương Thủ Dầu Một - Bình Dương trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xâm lược Mỹ.

* Chu Văn An “bậc tôn sư của Nho gia Việt Nam”, nhà giáo của muôn đời…

   Lời tôn vinh trên đây dành cho Chu Văn An (C.V.A) là của danh sĩ, sử gia Ngô Sĩ Liên, tác giả bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” (ĐVSKTT). Nhiều tác gia còn gọi ông là “Ngôi sao Bắc đẩu của nền giáo dục đời Trần”.
Chu Văn An sinh ngày 25/8/1292 tại Thanh Trì, Hà Nội ngày nay, mất năm 1370, thọ 79 tuổi, được thờ ở Văn miếu, nơi dành cho các vị tiên Nho. Thời trẻ ông học rất giỏi, nổi tiếng thần đồng. Tuy đậu Thái học sinh (Tiến sĩ) nhưng không muốn làm quan, ông mở trường dạy học và đọc sách, có nhiều học trò thành đạt, có người làm đến chức Hành Khiển (Tể tướng). Danh tiếng C.V.A vang xa đến triều đình, nhà vua liên tục khẩn cầu ông ra giúp nước. Sau nhiều lần từ chối, cho đến khi được biết nhà vua thật sự quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, ông mới nhận lời tham chính như sách ĐVSKTT đã ghi: “Hoàng thượng thấy được việc học là trọng, để duy trì xã tắc nên muốn góp công vun đắp”. Ông được giao nhiệm vụ trông coi Quốc tử giám (lãnh đạo trường đại học sớm nhất của nước ta). Ngoài ra, ông còn được giao trọng trách dạy học cho hai Hoàng thái tử là Trần Vượng và Trần Hạo từ khi còn nhỏ. Sau này cả hai lần lượt đều lên ngôi vua là Trần Hiển Tông (trị vì 1329 – 1341) và Trần Dụ Tông (trị vì 1341 – 1369). Khi sự nghiệp giáo dục đất nước cần, ông đứng ra lãnh trách nhiệm gánh vác, nhưng lúc vua không còn nghe những thỉnh cầu chính đáng “dâng sớ đòi chém đầu bảy gian thần hại nước”, ông liền từ quan lui về ở ẩn tại Chí Linh, dù nhà vua vẫn còn dành sự kính mến cho ông. Việc này sách ĐVSKTT có đưa ra lời nhận xét: “Vua biết tôn trọng thầy dạy nhưng không bàn việc nước [là việc trừ khử gian thần – N.H.H] với thầy. Vì thế bậc hiền năng không nên ở để làm”
Bình sinh trong việc học tập, dạy dỗ cũng như trong ứng xử, nhà giáo Chu Văn An luôn cố gắng thực hiện đúng theo các tiêu chí do ông đề ra cho mình và mong muốn các môn sinh của ông noi theo. Các tiêu chí đó được gói gọn trong 8 chữ là cùng lý (học, bàn cho hết lý lẽ); chính tâm (luôn giữ lòng mình ngay thẳng); tịch tà (diệt cái xấu, cái ác) và cự bí (cố khắc phục kho khăn để thực hiện cho được các mục tiêu đề ra)
Nhờ có tài năng, đức độ và lý tưởng đúng trong cuộc sống, nhà giáo C.V.A không chỉ là một danh sư của một thời mà còn là một vị quốc sư, “lương sư” muôn đời trong lịch sử văn hóa, giáo dục nước nhà. Ông quả xứng đáng được ngưỡng mộ như câu thơ của nhà thơ Cao Bá Quát: “Tiết cứng, lòng trong, khí phách hùng”, tên tuổi ông sẽ còn mãi với hậu thế: “Văn miếu còn tên hương khói nồng”… Và có lẽ không có sự đánh giá tôn vinh nào xứng đáng hơn đối với C.V.A như lời nhận xét của danh sĩ, nhà bách khoa Phan Huy Chú, tác giả bộ Lịch triều Hiến Chương loại chí: “Tiên sinh học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho Việt Nam trước sau chỉ có một Chu Văn An”
Khi nói đến tầm nhìn trong sách lược đào tạo “hiền tài” để bồi đắp cho “nguyên khí” quốc gia, không thể không nhắc đến Thân Nhân Trung, một danh nhân văn hóa tiêu biểu của triều đại thịnh trị Lê Thánh Tông.

* Nhà chiến lược giáo dục Thân Nhân Trung và triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497)

   Từ những đóng góp nhiều ý nghĩa của các thế hệ danh sư, quốc sư như Chu Văn An trong lịch sử văn hóa của nước nhà, cho đến triều đại Lê Thánh Tông chiến lược đào tạo tôn vinh nhân tài, hiền tài mới được đặc biệt quan tâm một cách cụ thể, rõ ràng. Những người đỗ đại khoa (Tiến sĩ trở lên) được tôn vinh làm lễ xướng danh, được khắc tên vào bia đá tại Văn miếu Quốc tử giám và Văn bia tôn vinh đầu tiên này được dựng vào năm 1484 (được biết khoa thi lấy tiến sĩ dưới thời nhà Lê có từ năm 1442). Người được vua Lê Thánh Tông và triều đình giao cho vinh dự soạn thảo nội dung bài khắc vào tấm văn bia lịch sử này là danh thần Thân Nhân Trung (T.N.T) (1418-1499). Có thể gọi ông là nhà chiến lược giáo dục, có tầm nhìn thấu suốt lịch sử phát triển sự nghiệp đào tạo nhân tài và xem đó như là động lực thúc đẩy sự hưng thịnh của quốc gia. Ông đã đúc kết và đưa ra những khái niệm, nguyên lý về sự đào tạo “hiền tài”, nuôi dưỡng, bồi bổ “nguyên khí” quốc gia (tức là nội lực, sức sống của một đất nước). Được biết ông không chỉ có sẵn tài năng về văn học về giáo dục mà ông còn nắm giữ các cương vị rất thuận lợi để thực hiện trọng trách được nhà vua và triều đình giao phó. Ông là vị đại thần làm đến chức Thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện kiêm Đông các đại học sĩ, Nhập nội phụ chính. Ngoài ra còn giữ chức Tế tửu Quốc tử giám (Hiệu trưởng trường đại học quốc gia lúc bấy giờ), được mời vào cung dạy cho các hoàng tử. Về học thuật, ông là Phó Tao đàn nguyên súy của Tao đàn Nhị thập bát tú mà vua Lê Thánh Tông là nguyên súy. Dưới đây là đoạn dịch từ bài khắc trên bia (đầu tiên dựng 1484) có nội dung rất hàm súc và đầy thuyết phục về đạo lý giáo dục… của tác giả T.N.T:
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Bởi vậy các thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ có mối quan hệ đối với sự phát triển của đất nước. Vì thế cái ý tôn trọng họ thật là vô cùng…” (Trích Tuyển tập Văn bia Hà Nội nhà XB KHXH).
Người thế nào được gọi là hiền tài? Văn bia cũng ghi rõ là người “Lấy trung nghĩa mà rèn cho danh thực hợp nhau, thực hành điều sở học, làm nên sự nghiệp vĩ đại sáng ngời, khiến cho mọi người đời sau kính trọng thanh danh, mến mộ khí tiết…”  (Văn bia năm 1487).
Để đất nước có được những bậc hiền tài, ngoài nổ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng của bản thân mỗi người, họ còn cần phải có một hoàn cảnh thuận lợi như văn bia đã viết: “Nhân tài phồn vinh vốn có quan hệ đến khí hóa của trời đất và cốt ở cái gốc giáo hóa của thánh nhân” (Văn bia 1487). Cụ thể chính là triều đại thịnh trị thời Lê Thánh Tông cùng sự quan tâm đặc biệt của nhà vua đối với việc giáo dưỡng, tuyển chọn sử dụng hiền tài. Như vậy, đến đời Lê Thánh Tông quy mô giáo dục, đào tạo càng được mở rộng, việc dạy và học cũng như tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ nhân tài rất được chú trọng. Chính nhà vua đích thân lấy người đỗ tại các khoa thi đình, cho khắc tên những người đỗ tiến sĩ vào bia đá để tôn vinh lưu danh lại hậu thế như đã nói ở trên.
Đã có nhiều sử liệu nói đến sự nghiệp đào tạo giáo dục phát triển một cách rực rỡ dưới thời nhà Lê, đặc biệt là ở triều đại Lê Thánh Tông. Mới đây cuốn “lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX” của giáo sư Lê Thành Khôi viết bằng tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Việt vào tháng 8/2014 vừa qua “Đây là lần đầu tiên tác phẩm được coi là kiệt tác sử học được xuất bản bằng tiếng Việt” (Lời giới thiệu của nhà XB Nhã Nam và Thế giới)
Sau khi nhắc lại nội dung bài khắc trên Văn bia của Thân Nhân Trung, tác giả cuốn lịch sử nói trên đã đánh giá rất cao việc phát triển sự nghiệp đào tạo giáo dục thời Lê Thánh Tông, như sau: “Hòa bình và thịnh vượng kinh tế tạo thuận lợi cho sự phát triển vô song về văn chương và văn hóa. Trong vòng 900 năm , kể từ ngày mở đầu các khoa thi dưới triều lý tới khi bị bãi bỏ vào thế kỷ XX, đã có 2325 tiến sĩ trong số có 30 trạng nguyên. Nhưng chỉ riêng 37 năm Lê Thánh Tông trị vì cho ra đời 20% tổng số tiến sĩ và 30% số trạng nguyên…” (Sđd trang 274)
Nhờ sự kế thừa và phát triển về văn hóa học thuật qua nhiều triều đại, nhất là triều đại Lê Thánh Tông mà đất nước ta tiếp tục sản sinh nhiều danh sư, danh nhân văn hóa lớn. Trong đó phải kể đến nhà giáo, nhà văn hóa, trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thời Lê-Mạc dưới đây:

* Nhà giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm, một danh nhân văn hóa của dân tộc

   Nguyễn Bỉnh Khiêm (NBK: 1491-1585) đỗ thủ khoa thi Hương, thi Hội và thi Đình (Trạng nguyên năm 1535), nhưng ông không thiết tha với quan trường, miễn cưỡng ra làm quan (làm quan tại nhà), dù đã về hưu vẫn được phong chức Thượng thu bộ lại tước Trình quốc công (vì ông giỏi khoa lý học-tướng số nên người đời lấy họ Trình của hai nhà lý học nổi tiếng Trung Quốc là Trình Di, Trình Hạo để đặt quan hiệu cho ông). Giới học thuật xem ông là bậc đại sư trong nho học lẫn khoa lý học và cho rằng ông có thể biết chuyện quá khứ, vị lai hàng nhiều trăm năm sau. Vì thế, các vua chúa danh gia nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn đều phái sứ giả đến xin lời khuyên bảo, nhìn xa biết rộng của ông. Nhưng chính kiến về việc trị nước của ông lại rất thực tiễn, thân dân. Ông thường khuyên các vị vua chúa, lãnh đạo đất nước phải hiểu rõ “Sức dân như nước, dùng nhân để kết mới vững bền” cũng như “Bền nước an dân là việc đầu mối”,  người cầm quyền phải được coi như ngọn đuốc “Soi thấu dân đen ở xóm quạnh nhà tranh”… Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là “một tác giả văn học kiệt xuất” xứng đáng là một “danh nhân văn hóa lớn của dân tộc” (Từ điển tác gia tác phẩm văn học Việt Nam, XB ĐHSP 2009, trang 347)
Nhà giáo N.B.K quả xứng danh là một Lương sư đúng như tên gọi tôn vinh của xử sĩ V.T.T và được môn đệ tôn xưng là “Tuyết giang phu tử”  (vị thầy đáng tôn kính ở bên sông Tuyết Hàn)
Ở trên là những nhà giáo thuộc hàng danh sư, nhà văn hóa lớn của dân tộc trong thời bình. Dưới đây xin nhắc đến một nhà giáo, nhà thơ đã nêu gương sáng tiêu biểu cho tinh thần yêu nước trong thời kỳ đặc biệt của lịch sử nước nhà khi quân Pháp xâm lược nước ta. Đó là nhà giáo mù lòa, nhà thơ tác giả các danh tác như “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”…

* Nguyễn Đình Chiểu, nhà giáo tiêu biểu truyền thống đạo lý dân tộc, và tinh thần yêu nước…

Nguyễn Đình Chiểu (N.Đ.C) là nhà giáo, nhà thơ, một chí sĩ yêu nước chống ngoại xâm, bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc. Ông sinh 1822 tại làng Tân Khánh huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định và mất năm 1888, thọ 66 tuổi. Ông bị mù trên đường đi từ Huế (nơi Ông đang ôn tập để thi lại khoa thi Hương 1849) trở về quê để thọ tang cho mẹ. Khi Pháp chiếm Gia Định, ông về ở Bến Tre dạy học, bốc thuốc cứu người. Đồng thời ông liên hệ, ủng hộ nhóm nghĩa binh Trương Định đề chống Pháp. Nhà thơ thể hiện nổi đau lòng trước cảnh mất nước qua bài thơ: “Chạy giặc”: “Bến Nghé của tiền tan bọt nước. Đồng Nai tranh ngói nhóm màu mây”. Ông cổ vũ những anh hùng nghĩa sĩ ra tay cứu dân cứu nước: “Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng. Nỡ để dân đen mắc nạn này”… Ông là nhà giáo, nhà thơ quyết đấu tranh với cái xấu, cái ác bằng sở trường của mình để bảo vệ, đề cao đạo lý truyền thống dân tộc. Ông quyết dùng ngòi bút chống bọn gian tà phản bội đất nước: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Ngoài các tác phẩm nổi tiếng như “Lục Vân Tiên”, “Dương Từ Hà Mậu”, “Ngư tiều y thuật vấn đáp”, ông còn sáng tác rất nhiều thơ văn bi tráng, đề cao tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm , trong đó phải kể đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” (1861), thơ văn truy điệu Trương Định (1864), Văn tế nghĩa sĩ trận vong… (1874)
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà giáo đặc biệt (mù lòa) ở vào một thời nhiễu nhương, đất nước bị xâm lăng, bằng tài năng đức độ và ý chí, ông đã nêu cao tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước và những giá trị đạo nghĩa truyền thống của dân tộc.
Trong lịch sử văn học giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX, nhà thơ N.Đ.C đã giữ một vị trí cao quí đặc biệt “Tượng trưng cho nhân cách cao đẹp của con người Việt Nam và sự nghiệp văn chương Đồ Chiểu rất đậm đà sắc thái dân tộc và nhân dân, là một cống hiến xuất sắc cho thời đại, cho dân tộc” (Lời kết luận về N.Đ.C trong từ điển Tác gia, tác phẩm Văn học Việt Nam, NXB ĐHSP 2009, trag 398)

* Nhà giáo Nguyễn Tất Thành, người mở đầu sự nghiệp lớn của một vị Thầy dân tộc

Ở cuối thập niên đầu thế kỷ XX, hoàn cảnh đất nước ta đã sản sinh một nhà giáo đặc biệt, có thể xem là kết tinh của tinh hoa dân tộc, đồng thời là người mở ra một thời đại mới mà ngày nay vẫn được gọi là thời đại Hồ Chí Minh. Đó là nhà giáo trẻ Nguyễn Tất Thành (N.T.T) ở giai đoạn khởi đầu của một sự nghiệp vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sau đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy thời gian trực tiếp đứng trên bục giảng của N.T.T không nhiều, nhưng với nghĩa rộng về thiên chức, ảnh hường của một người thầy, nhà giáo ấy sau này xứng đáng là vị thầy chung của nhiều người, của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam yêu nước trong thời kỳ giành độc lập giải phóng và thống nhất đất nước. Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh là sự tiếp nối của một sự nghiệp vĩ đại đối với đất nước và cả thế giới. Cơ quan Unesco đã từng tôn vinh Hồ Chí Minh là “anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”
Đối với sự nghiệp giáo dục, qua hình ảnh thầy giáo Nguyễn Tất Thành, Người xứng đáng là một nhà giáo vĩ đại, một “lương sư” góp phần bồi dưỡng cho nhiều thế hệ “nhân tài - hiền tài” làm phong phú cho “nguyên khí” quốc gia trong thời hiện đại.

* Một số nhà giáo yêu nước tiêu biểu của Bình Dương trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp – Mỹ:

Chính cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy của dân tộc, đặc biệt là tinh thần yêu nước, đã tác động sâu xa đến nhiều thế hệ thầy cô giáo Việt Nam, trong đó có thầy cô giáo của quê hương vùng đất Thủ Dầu Một - Bình Dương.
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi muốn được nhắc đến tên tuổi một số nhà giáo tiêu biểu hơn cả cho tinh thần yêu nước nói trên qua hai cuộc kháng chiến của riêng quê hương TDM - BD trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng chung của dân tộc và thống nhất đất nước

1/ Thầy giáo Chương (1888-1946): Thầy tên thật là Lê Văn Lương, sinh năm 1888 tại xã Chánh Hiệp, quận Châu Thành tỉnh TDM nay thuộc Thành phố TDM-BD, học trường tiểu học Nam Châu Thành. Sau khi tốt nghiệp sư phạm thầy về dạy tại trường cũ, nhận chức hương sư, đồng thời tham gia Hội truyền bá quốc ngữ, dưới sự hướng dẫn của tổ chức Việt Minh. Đặc biệt, thầy tự nguyện nhường phần lớn ngôi nhà của mình để làm văn phòng cho tướng Nguyễn Bình, đặc phái viên của Hồ Chủ tịch, khi đó vào Nam Bộ lãnh đạo lực lượng kháng chiến (ngôi nhà này hiện nay mang số 730 đường Cách mạng Tháng 8, phường Hiệp Thành, thành phố TDM). Đầu năm 1946, thầy bị quân Pháp bắt nhốt khám đường TDM. Tên cảnh sát Iry, biết thầy từng giữ chức Hương sư, nên ra sức dụ dỗ thầy theo Pháp, nhưng thất bại. Cuối cùng chúng đưa ra 2 lá cờ một của “mẫu quốc Pháp” và một của Việt Minh, mà chúng cho là phiến loạn, rồi bảo thầy chọn. Thầy điềm nhiên, cương quyết chọn lá cờ Việt Minh và nói: “Tôi là người Việt Nam nên tôi chọn lá cờ của Tổ quốc tôi”. Tên cảnh sát trưởng tức giận, sai tên Cò Bân (Việt gian) còng tay thầy, mang đi thù tiêu…
Hiện nay tên thầy được đặt cho một con đường tại trung tâm thành phố Thủ Dầu Một.

2/ Thầy Nguyễn Văn Tiết (1909-1948): Thầy sinh 1909 tại xã Bình Nhâm huyện Lái Thiêu tỉnh TDM. Sau khi đậu bằng tiểu học ở trường Nam Châu Thành, thầy học thêm và đi dạy học. Thầy dự đám tang chí sĩ Phan Chu Trinh, tham gia Hội kín Nguyễn An Ninh và hăng hái hoạt động cách mạng. Tháng 8/1930 đ/c Nguyễn Văn Tiết (N.V.T) được kết nạp vào chi bộ Cộng sản xã Bình Nhâm và sau đó bị bắt, xử án 5 năm tù, đày ra Côn Đảo. Đến 1945 đ/c N.V.T tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa CM Tháng 8, đến tháng 3/1946 đ/c được cử làm Bí thư kiêm Thư ký tỉnh bộ Việt Minh. Đ/c cũng là người sáng lập và làm chủ nhiệm đầu tiên tờ báo “Tiến lên” của tỉnh. Tháng 9/1947, Quân khu 7 chỉ định đ/c N.V.T làm Tỉnh đội trưởng vừa là Bí thư tỉnh ủy.
Ngày 19/8/1948 đ/c N.V.T cùng đoàn công tác bị phục kích ở xã Bình Hòa, huyện Lái Thiêu và hy sinh ở tuổi 39 khi tròn 18 tuổi Đảng.
Ngày nay tên Nguyễn Văn Tiết được đặt cho một con đường tại thành phố Thủ Dầu Một.
3/ Thầy giáo Võ Minh Đức (1914-1983): Tên khai sinh của thầy là Võ Văn Đợi, sinh ngày 01/8/1914 tại An Thạnh huyện Thuận An tỉnh TDM. Thầy tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học tại Sài Gòn, về dạy ở TDM, tại trường tiểu học Tân Ánh Mai (ở ấp Bộng Dầu nay thuộc phường Phú Cường). Sớm chịu ảnh hưởng của tổ chức Đảng Cộng Sản, thầy giáo Đợi bí mật dự mít tinh phát động hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam kỳ 23/01/1940. Đến 15/01/1945 đ/c VMĐ được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam và tham gia giành chính quyền Cách mạng Tháng 8/1945. Trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954) đ/c được giao phó các trách nhiệm quan trọng như Chủ nhiệm tỉnh Đảng bộ Việt Minh, UV UBKCHC tỉnh, UV Chính thức tỉnh ủy Thủ Biên.
Sau 1954, đ/c được phân công ở lại miền Nam và lấy tên là Võ Minh Đức. Thời kỳ chống Mỹ (1954-1975), đ/c VMĐ đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao như: Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một (1956-1960); Khu ủy miền Đông Nam Bộ (1966), Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh TDM (1974-1975), Thường vụ Tỉnh ủy… Sau ngày đất nước thống nhất, đ/c nhận các nhiệm vụ mới như Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sông Bé, Đại biểu quốc hội từ khóa VII (25/4/1976), Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Sông Bé.
Đ/c V.N.Đ đã được Đảng, Chính phủ tặng thưởng nhiều huân chương cao quí. Ngành giáo dục rất tự hào về thầy, là một trong những “Thầy giáo đỏ” của tỉnh nhà. Đ/c mất ngày 13/5/1983 và đến năm 1987, Ủy ban Nhân dân tỉnh quyết định đặt tên một trường trung học lớn mới được xây dựng tại trung tâm Thủ Dầu Một-Bình Dương là trường Trung học Phổ thông Võ Minh Đức.
Ngoài ra, trong kháng chiến chống Pháp, có nhiều nhà giáo đã trực tiếp đảm nhận những trọng trách trong ngành giáo dục địa phương. Trước hết, phải kể đến các nhà giáo như: Phạm Văn Trình giữ chức Trưởng ban giáo dục tỉnh (1947-1948), rồi Trưởng ty giáo dục (1948-1952); Nguyễn Văn Đỏ: Phó Trưởng ty giáo dục (1948-1952); Nguyễn Văn Tép: Trưởng ban Hành chính học vụ; Giáo sư Lê Văn Cẩm: Trưởng ban Tu thư ty giáo dục, Hiệu trưởng trường Trung học Nguyễn Văn Tố
Trong kháng chiến chống Mỹ, hai trong số những nhà giáo yêu nước Bình Dương đã anh dũng hy sinh trong lao tù kẻ thù, đã để lại cho giáo giới và nhân dân địa phương sự cảm phục và lòng thương tiếc sâu xa là hai nhà giáo Nguyễn Quốc Phú và Trần Bửu Hoàng Châu.
Tóm lại, những nhà giáo vừa được trân trọng nhắc đến trên đây, dù ở vào các triều đại, cương vị, tầm vóc ảnh hưởng khác nhau, nhưng có một điểm chung họ đều là những nhà giáo tiêu biểu cho thời đại của mình. Họ xứng đáng là những “lương sư” góp phần vào sự nghiệp hưng quốc. “Hưng quốc” ở đây bao hàm ý nghĩa mở mang, xây dựng và bảo vệ độc lập chủ quyền, hòa bình cho đất nước. Đó là những điều kiện không thể thiếu để cho quốc gia phát triển và hưng thịnh
Và tất cả sự nghiệp, gương sáng của các nhà giáo nói trên càng minh chứng một cách đầy thuyết phục về giá trị đúc kết, khái quát của cụm từ chủ đề: “Lương sư hưng quốc”  vừa được trình bày trong bài viết này./.
                                                                                                          N.H.H (Bình Dương)



* Sách tham khảo
1/ Từ điển Bách khoa Việt Nam TTBSTĐBKVN-Hà Nội từ 1995…
2/ Ngô Đức Thọ (cb) Các nhà Khoa bảng Việt Nam (1075-1919) NXB VH 1993
3/ Từ điển Tác gia, Tác phẩm văn học Việt Nam, NXB ĐHSP 2009.
4/ Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB T.H TP.HCM 2006
5/ Từ điển Văn học (Bộ mới) NXB Thế giới 2004
6/ Lê Thành Khôi, lịch sử Việt Nam…NXB Nhã Nam-Thế giới 2014
7/ Tài liệu tổng hợp từ nhiều sách, báo khác…
Read more…

ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN VÀ TRẢI NGHIỆM VỀ TUỔI HƯU, TUỔI GIÀ CỦA MỘT NHÀ GIÁO - Bài của Nguyễn Hiếu Học



(Nhân Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 2014)                          
                                                                                                                                

Trong thời gian nghỉ hưu, đôi khi chúng tôi được nghe từ đâu đó ở bạn bè, người thân các câu hỏi quen thuộc, đại loại như cuộc sống khi về hưu ra sao? Có gì thuận lợi hay khó khăn hơn lúc còn tại chức? Tuổi hưu có đúng là thời an nhàn hay chỉ là lúc có thêm nhiều sự bất an lo lắng?
Quả là không dễ có được câu trả lời thực sự thấu đáo cho vấn đề nêu trên. Bởi lẽ, cũng như trong cuộc sống nói chung, giai đoạn về hưu vẫn luôn có sự đan xen giữa niềm vui và nỗi lo, giữa sự may mắn và điều không mong muốn. Hơn nữa, quan niệm và cách tiếp nhận sự việc nói trên ở mỗi thời, mỗi người lại khác nhau. Ngay khi những người cùng ở độ tuổi hưu, tuổi già, nhưng cảm nhận có được hạnh phúc nhiều hay ít còn tùy thuộc vào nhận thức và cách ứng phó với tuổi tác, sức khỏe và hoàn cảnh sống riêng của từng người.
Nhân kỷ niệm ngày Người Cao tuổi và Ngày Nhà Giáo (20 tháng 11), chúng tôi muốn được chia sẻ cùng các thân hữu đồng nghiệp đã nghỉ hưu, nhất là với các vị còn đang tại chức, đôi điều cảm nhận, trải nghiệm của một nhà giáo đã hưu trí về việc nghỉ hưu và cuộc sống ở Tuổi Hưu – Tuổi Già. Đây chỉ là một vài suy nghĩ về một vấn đề khá thiết thực mà ai cũng phải quan tâm đến giai đoạn cuối đời của chúng ta.
Trước khi nghỉ hưu, mỗi người đều có một công việc nghề nghiệp và hoàn cảnh sống riêng, nên sẽ có cách suy nghĩ, tiếp nhận và ứng xử không hoàn toàn giống nhau về tuổi hưu và tuổi già của mình. Riêng trong nghề dạy học, không kể một số trường hợp đặc biệt ở những người có cương vị, chức vụ quan trọng, có lẽ với đại đa số nhà giáo chúng ta, có thể có nhiều điểm tương đồng trong cuộc sống nói chung, nhất là trong các sinh hoạt tinh thần. Cho nên, không quá khó để các nhà giáo có thể tìm được tiếng nói chung trong cách đánh giá, nhìn nhận một số tiêu chí giá trị về cuộc sống, về hạnh phúc… Có lẽ nhờ thế, hầu hết nhà giáo có thể đón nhận “biến cố” nghỉ hưu và cuộc sống hưu trí của mình một cách thanh thản, bình thường.
Những cảm nhận, trải nghiệm về tuổi hưu, tuổi già  nhắc đến dưới đây được rút tỉa từ những người đi trước, ở bạn bè cùng thế hệ và ngay chính bản thân mình. Trong đó, có một số trích dẫn từ các nhà giáo, nhà văn, nhà văn hóa, các nhà chuyên môn y học, tâm lý tên tuổi, cùng quan tâm đến vấn đề nêu trên.
Khi nói đến việc nghỉ hưu, không thể không nhắc đến các qui định chung về độ  tuổi về hưu cũng như các khái niệm liên quan đến tuổi hưu, tuổi già…
Các từ điển Hán Việt thông dụng đều giải thích “Hưu”“thôi”, là “nghỉ” công việc đang đảm nhận, “Tr픓đến hạn”. Vậy người nghỉ hưu hay được hưu trí, là người đang làm một công việc ăn lương, nay đến hạn tuổi qui định phải nghỉ việc và được lĩnh một số tiền hàng tháng gọi là lương hưu cho đến cuối đời. Khái niệm già thường gắn liền sau khái niệm về hưu, vì đây là độ tuổi đang bước dần đến sự suy giảm thể lực, hạn chế khả năng hoạt động làm việc của con người. Tốc độ lão hóa nhanh hay chậm tùy thuộc đặc điểm cơ thể và lối sống của từng người. Vẫn biết tuổi già thường hay có bệnh nhưng tuổi già không phải là tuổi bệnh, nếu ta sớm biết cách phòng bệnh, thường xuyên rèn luyện thể chất và luôn có một tinh thần lạc quan.
Nhà văn, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong tác phẩm “Già ơi…chào bạn” đã cho rằng về mặt xã hội, khái niệm “già” khá mơ hồ, tùy theo nền văn hóa và thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác (...). Ở Việt Nam thời Pháp thuộc, tuổi thọ trung bình 32, ngày nay tuổi thọ là 68 (nam), 72 (nữ ) (con số tương ứng hiện nay đã lên trên 70 và gần 80-NHH). Nhưng những người trên 80 còn hoạt động năng nổ, sáng tạo không hiếm. Về kinh tế, “già” có khi được định nghĩa như tuổi “về hưu”, mất sức, hết làm việc được, nhưng thực tế những người về hưu đa số vẫn còn làm việc tích cực, đặc biệt trong một số lĩnh vực” (sđd trang 32)
Được biết tuổi về hưu hiện nay ở Việt Nam là 60 (nam) và 55 (nữ). Còn ở các nước Âu Mỹ tuổi hưu bắt đầu từ 65 trở lên. Và ở độ tuổi này, đa số người về hưu ở Việt Nam chưa hẳn đã già yếu. Hơn nữa, ngày nay y học nói chung và lão khoa trên thế giới tiến bộ rất nhanh, nên sức khỏe, tuổi thọ của người lớn tuổi ngày càng được cải thiện và nâng cao. Bởi vậy một số người đã nghỉ hưu vẫn tiếp tục làm một công việc thích hợp nào đó (có thể với cường độ và thời gian lao động ít hơn lúc trẻ) để tăng thêm thu nhập, bổ sung vào đồng lương hưu (nói chung lương hưu của số đông người nghỉ hưu hiện nay thường khá khiêm tốn). Những người không bận tâm nhiều vào lương hưu hoặc có thu nhập tạm đủ họ thường chọn cho mình các hoạt động ưa thích và hợp với sức khỏe, năng lực của họ. Đó có thể là công việc viết văn, làm báo, sáng tác, thưởng thức thi ca âm nhạc hội họa hay theo đuổi một môn thể dục, thể thao vừa sức hoặc một thú vui giải trí thích hợp mà trước đây vì bận công việc, nghề nghiệp nên chưa thực hiện được. Cũng có người gặp cơ duyên hoặc vì một lý do riêng, khi lớn tuổi lại muốn hướng phần đời còn lại vào niềm tin tôn giáo, tâm linh hoặc cống hiến hết tâm lực vào các hoạt động từ thiện, công ích cho xã hội v.v
Đặc biệt, với những người sống lạc quan, sức khỏe còn tốt, tinh thần vững mạnh, lại cho rằng “Về hưu là một giải thoát, một niềm vui lớn” (Sđd trang 22). Và tuổi về hưu là cái mốc khởi đầu cho một giai đoạn sống mới có nhiều ý nghĩa và thú vị mà thời gian trước chưa thể có được. Theo đó, đến được cái mốc tuổi về hưu là thành quả của một quá trình lao động, phải vượt qua bao thử thách mới có thể tích lũy được những trải nghiệm quí báu cho cuộc sống nói chung. Hơn thế, với những người già thông tuệ, còn cho đây là giai đoạn tốt nhất để tổng kết thành quả một đời người, để có thể suy ngẫm hành xử một cách minh triết về nhân sinh, về ý nghĩa của cuộc sống. Một trong những hiền nhân trí tuệ đó ở Việt Nam, có thể kể đến Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm. Cụ là một điển hình cho tuổi già thông tuệ, minh triết ở thời trung đại. Còn muốn nói đến một ông già trí thức phương Tây luôn dấn thân cho sự nghiệp hòa bình của nhân loại thời hiện đại không thể không nhắc đến nhà triết học người Anh Bertrand Russell. Cả hai cụ vừa nói đến đều có tuổi thọ trên 90.
Nhưng trước khi đi sâu vào các đặc điểm lợi thế riêng của tuổi hưu, tuổi già, chúng ta cũng nên biết đến quan điểm bi quan của một số người trước “bước ngoặt” phải nghỉ hưu. Đối với họ, về hưu là một sự thay đổi lớn trong cuộc sống của họ, gây nên tâm lý bất an, hụt hẫng, luôn có cảm giác không dễ vượt qua sự thay đổi đó. Và nếu có tìm được sự thích nghi nào thì đây chỉ là điều bó buộc phải chấp nhận, ngoài sự mong muốn của họ. Cũng theo quan điểm bi quan nói trên “Về hưu là một biến cố, dù có chuẩn bị đi nữa cũng là cú sốc, nặng nhẹ tùy người. Có người hụt hẫng do thu nhập bị thu hẹp, sức khỏe giảm sút, tiếng nói hết trọng lượng, bạn bè xa dần… sinh ra chua chát, đắng cay” (Sđd trang 41). Một nhà tâm lý cũng cho rằng cú sốc, hụt hẫng đó “đã được xếp loại là một trong chín nguyên nhân gây căng thẳng tâm thần trong đời sống. Nhất là ở những người nắm giữ chức vụ cao, quan trọng” mà không tự tìm được sự hóa giải, vượt qua “thì khi về hưu sẽ cảm thấy mình rơi vào khoảng không: mất uy quyền, địa vị trong xã hội sợ bị lãng quên (…). Nếu không có phương hướng sống thì những người này dễ bị rơi vào tình trạng rối loạn tình cảm trầm trọng trong năm mới về hưu và đó cũng là môi trường màu mỡ cho bệnh tật” (B/s Nguyễn Ý Đức, An hưởng tuổi già, trang 204).
Kinh nghiệm cho thấy hầu hết nhà nho thuộc thế hệ ông cha chúng ta ngày trước đã thấm nhuần và thành công trong thuật “xuất xử” khi ra gánh vác việc xã hội cũng như khi lui về gia đình an hưởng tuổi già. Ngày nay, cũng có không ít người từng giữ những vị trí, chức vụ quan trọng nhưng nhờ có được một nền tảng văn hóa ứng xử thích hợp nên có thể vượt qua sự hụt hẫng nói trên một cách thanh thản không mấy khó khăn.
Trở lại với quan điểm của những người về hưu sống lạc quan. Họ luôn mong muốn được sống với tuổi thọ cao, tráng kiện về thể chất và minh mẫn về tinh thần. Quãng thời gian có được một tuổi thọ tốt đẹp như thế, người phương Tây thường gọi một cách trân trọng là Giai Đoạn Tuổi Vàng (The Golden Years). Một bác sĩ lão khoa đã viết một cuốn sách dành cho người về hưu, người già có tựa đề “An Hưởng Tuổi Già” trong đó có đề cập đến những thú vui thích hợp cho người lớn tuổi, người đã về hưu đã nói trên: “Không có gì thú bằng khi về hưu có thể làm những việc mà trước đó không có thì giờ cũng như hoàn cảnh để thực hiện. Đọc sách, học vẽ, học nhạc, viết lách, làm việc tự nguyện v.v. Nhất là đi du lịch đó đây để du sơn ngoạn thủy, tìm hiểu thêm về con người, cuộc sống…”. Tác giả cũng không quên cho rằng những điều thú vị ấy nếu được chia sẻ, nhất là với người bạn đời vào lúc có tuổi, thì cuộc sống càng thêm ý vị khi ông viết: “… Hình ảnh cặp vợ chồng chưa già hẳn, nương nhau mà đi, lòng nhẹ nhàng, không lo nghĩ không bận bịu”. Dường như họ được sống lại thời thanh xuân, nhưng với cái nhìn đằm thắm từng trải hơn. Tình cảm gắn bó, sự chia sẻ, đồng cảm đó có thêm một chút lãng mạn cần thiết sẽ làm cho cuộc sống của một đôi vợ chồng lớn tuổi thêm ý nghĩa : “… Nếu họ có mối quan tâm chung (…) thì khi về hưu là cơ hội họ sống với nhau nhiều hơn. Một khi họ được giải phóng cả về công việc xã hội, cũng như con cái đã khôn lớn, sống xa gia đình. Có gì vui sướng hơn khi hai vợ chồng già cùng nghe lại một bài hát cũ bên tách cà phê… chia sẻ với nhau những cảm xúc mà bọn trẻ ngày nay không còn ai biết nữa: “Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại” - (Đỗ Hồng Ngọc Sđd trang 43).
Đúng là tình yêu của người có tuổi “tuy không hừng hực lửa” nhưng có sự trong sáng của tình bạn, sự vững bền của tình nghĩa và sự chia sẻ chăm sóc ấm áp từ cả hai vợ chồng. Có lẽ đó cũng là nét văn hóa riêng của người phương Đông, đặc biệt của người Việt. Vì theo nhà văn hóa B/s Nguyễn Khắc Viện, trong khi phương Tây chỉ có hai từ để nói về tình yêu là “Amour”“Sex”, thì ngôn ngữ tiếng Việt có đến những bốn từ nói về tình yêu hôn nhân giữa đôi nam nữ là Tình Duyên, Tình Yêu, Tình Dục và Tình Nghĩa. Trong đó, yếu tố tình nghĩa giữ vai trò quan trọng trong tình cảm tuổi già.
 Tổ chức Sức khỏe thế giới (Who) cũng luôn cổ vũ cho một tuổi già năng động, sáng tạo, sống hữu ích cùng con cháu trong gia đình giữa những người yêu quí trong vị thế “già không phải là gánh nặng mà là một nguồn lực”. Và ở đây, lại là thứ nguồn lực của kinh nghiệm và trí tuệ, rất cần cho con cháu, gia đình và cộng đồng xã hội…
Sự nhìn nhận trên đây cũng thích hợp với truyền thống luôn dành sự quan tâm, quí trọng đối với người già của văn hóa, xã hội Việt, được thể hiện qua câu châm ngôn quen thuộc “kính lão đắc thọ”, và theo túi khôn dân gian: “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ”
Đó là niềm vui, là bóng dáng hạnh phúc của tuổi hưu, tuổi già mà người phương Đông gọi là “Hưởng Lạc Dư Niên”, được vui sống trọn vẹn những năm tháng còn lại, khoảng thời gian coi như được cộng thêm vào tuổi thọ của đời người.
Tất nhiên, muốn có được hưởng trọn vẹn “giai đoạn tuổi vàng” hoặc tìm được ý nghĩa những năm tháng “hưởng lạc dư niên”, vừa nói trên, chúng ta phải cần hội đủ một số điều kiện không thể thiếu. Và các điều kiện đó có thể ở trong tầm tay của hầu hết chúng ta nếu có quyết tâm… Nhà văn André Maurois, Viện sĩ Hàn lâm văn học Pháp cũng cho rằng muốn có được hạnh phúc ở tuổi già, chúng ta phải có “một nghệ thuật sống” trong đó, có việc nên hiểu thấu đáo “nghệ thuật già”.
Theo kinh nghiệm được đúc kết từ các công trình chuyên tìm hiểu về tuổi già và cách tiếp cận với cuộc sống có hạnh phúc ở người cao tuổi, cũng như ở những trải nghiệm rút tỉa từ thực tiễn cuộc sống, chúng ta có thể phát họa một số tiêu chí cơ bản giúp cho tuổi về hưu, tuổi già có được một cuộc sống tích cực, hạnh phúc ở cuối đời như dưới đây:
- Trước hết, chúng ta phải duy trì được một sức khỏe tương đối tốt so với tuổi tác và phát hiện sớm các bệnh hiểm nghèo, nhờ vào phương pháp bảo vệ sức khỏe, kiểm tra bệnh tật thường xuyên ngay từ khi còn trẻ.
- Có mức thu nhập ổn định (từ lương hưu và nếu có thêm ít tiền, ít tài sản dự phòng càng tốt) vừa đủ cho nhu cầu cá nhân và gia đình (theo tiêu chí và hoàn cảnh riêng từng người) để khỏi phải lệ thuộc vào người khác, kể cả con cháu, người thân.
- Có được một mái ấm gia đình hoặc một nơi nương tựa tin cậy (chủ yếu là được chăm sóc về mặt tinh thần), một nhóm bạn hữu thân thiết (có thể xem là tri âm, nếu có được một vài bạn tri kỹ thì đáng quí).
- Sau hết, có một công việc thích hợp, vừa sức để theo đuổi, một cuộc sống tinh thần lạc quan thanh thản và có nhiều người để thương yêu và được những người chung quanh quí trọng.
Muốn có được những thuận lợi như trên, theo nhà văn Maurois, chúng ta phải chuẩn bị cho mình một nghệ thuật già ngay từ khi con trẻ. Và một trong những điều cốt yếu của nghệ thuật già, là phải luôn “nuôi dưỡng, duy trì niềm hy vọng trong tâm hồn. Những người lâu già là người biết giữ lẽ sống”. Ngoài những yếu tố cần có như sức khỏe, vật chất nói trên, nên có một nếp sống thanh đạm, hiền hòa, nhân từ và một tinh thần lạc quan. Nhà văn hóa Trung Hoa, Lâm Ngữ Đường đã phát họa chân dung của một người già tiếp cận với cái đẹp hoàn thiện như sau: “Không có gì đẹp bằng một người già minh mẫn, hiền hòa, khỏe mạnh, ôn tồn bàn về thế sự một cách từng trải
Trong những yếu tố làm nên sự vui sống, hạnh phúc của người già nói trên, sức khỏe giữ vai trò tiên quyết, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống của tuổi già. Nhưng đây lại là yếu tố không hoàn toàn tùy thuộc vào sự mong muốn chủ quan của ta, như việc tìm kiếm, thủ đắc về tri thức, về của cải vật chất. Tổ chức Who đã đưa ra một bản phúc trình cho thấy “tuổi thọ con người ngày nay càng tăng nhưng một số bệnh tật của tuổi già đã để lại những di chứng đáng tiếc”. Do đó, không ít những người cao tuổi có thể kéo dài tuổi đời nhưng không thể gọi đó là tuổi thọ hạnh phúc, nếu không muốn nói là một gánh nặng cho người thân, cho xã hội. Vì thế, tổ chức trên đã khuyến cáo phải thực hiện các biện pháp SAFE một cách nghiêm túc, để kéo dài tuổi thọ và nâng cao chất lượng sống (quality of life Assessement), trong đó sức khỏe là quan trọng nhất. Được biết, “SAFE” là những chữ viết tắt của Smoking (thuốc lá) Alcohol (rượu), Food (thức ăn) và Exercise (luyện tập). Và theo giải thích của tác giả “Già ơi… chào bạn!”: là không nên hút thuốc lá để tránh ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, bệnh tim mạch (…) (nếu không bỏ hẳn được thì phải cố gắng giảm bớt hút thuốc lá). Bớt rượu để tránh bệnh gan ruột, thần kinh (có thể mỗi ngày uống một cốc vang hoặc vài ly bia). Dinh dưỡng đúng cách với nhiều rau đậu, hoa quả có nhiều chất xơ, để tránh ung thư, táo bón và bớt đường, mỡ, muối và quá thừa chất đạm để tránh bệnh cao huyết áp, tiểu đường, gout… Thường xuyên vận động rèn luyện thể chất, tập thể dục, đi bộ, bơi lội, hít thở đúng cách…
Thực ra, những điều này không mới và ai cũng có thể biết, nhưng cái khó là mỗi người phải tự thắng bản thân để thực hiện cho được lời khuyến cáo “vàng ngọc” nói trên, nhất là với những người có thể chất không được khỏe mạnh và phải phòng ngừa trước khi bệnh mới bắt đầu phát sinh. Ngoài ra, muốn được trường thọ cần phải luôn giữ cho lòng được an lạc, như người xưa đã nói: “Lạc giả trường thọ, ưu giả dị yểu” (vui vẻ sống lâu, buồn phiền dễ chết sớm).
Có một sự thật khách quan chúng ta phải chấp nhận: về hưu và tuổi già, đó là qui định chung của xã hội, là giai đoạn sinh học tự nhiên của đời người. Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận và ứng phó một cách thích hợp, khôn ngoan trước bước ngoặc nghỉ hưu, cũng như không ngăn chận được tuổi già, nhưng vẫn có thể làm chậm lại quá trình lão hóa, bằng cách sống tích cực, biết “nghệ thuật già” ở cuối đời. Ở những người sống lạc quan, họ còn biết phát huy một số lợi thế của tuổi hưu, tuổi già mà ở các giai đoạn trước đó chưa thể có được. Nhà văn Maurois lại chỉ ra những lợi thế đó như là sự bù trừ vào điểm yếu của tuổi tác, khi ông đưa ra nhận xét khá tinh tế, sâu sắc: “Sau năm sáu chục năm nếm trải những thành công và thất bại, hỏi ai còn giữ được những điểm sung mãn của tuổi trẻ. Đi vào hoàng hôn của cuộc đời như đi vào vùng ánh sáng đã được điều hòa, ít chói chan hơn, mắt khỏi lóa bởi những màu sắc rực rỡ của bao ham muốn. Người ta nhìn mọi vật đúng như thực chất của nó” (André Maurois, Sđd trang 130)
Sau khi đã sống trọn vẹn tuổi già tích cực, đã tận hưởng những lạc thú chính đáng của đời người, nay đến lúc thật sự đã già, cách êm đẹp nhất là chúng ta phải biết chấp nhận tuổi già. “Thời tranh đấu đã qua, sự đời đã xong, chốn ẩn náu ngàn thu đã cận kề, khốn khổ tai họa không còn đáng kể nữa (…). Mất đi vài lạc thú mà không còn luyến tiếc nữa. Họ vui hưởng những gì còn lại với mình (…). Trong buổi xế tàn cuộc đời, làm thế nào có được an vui. Sau khi thấy rõ ảo vọng của danh lợi ở đời, người già tìm đến sự yên tĩnh ẩn dật, tìm vài công việc riêng hợp với sức mình (…). Riêng tôi, tưởng không có gì đẹp hơn trong lúc đã già, được về ở nhà quê, đừng quá xa thành thị, đọc lại vài cuốn sách mà tôi đã hết lòng yêu quí” (Maurois Sđd trang 149-150). Cũng nghĩ về ý nghĩa  của cuộc sống và sự đĩnh đạc từng trải của tuổi già, nhà tư tưởng Pascal đã nói: “Người già hưởng hạnh phúc bình tĩnh, làm kẻ ngoại cuộc linh động bất vụ lợi của một thời không còn phải của ta nữa. Vẻ mặt êm ả, cái nhìn thẳng thắn, vui vẻ nói rõ tâm trạng của người già”
Từ nhận định trên, có thể nói người già, tuổi già có thể dễ tìm thấy hạnh phúc, bởi yêu cầu, tiêu chí hạnh phúc người lớn tuổi đơn giản và cụ thể hơn lúc còn trẻ, vì lẽ họ không còn nhiều mơ ước cao xa, lớn lao mà chỉ có những mong muốn thiết thực, gần gũi. Chẳng hạn như muốn được sống một tuổi già bình an, ít bệnh tật và được nhìn thấy con cháu thành đạt nên người.
Những người sống từng trải, có nhiều kinh nghiệm sẽ dễ tán đồng với nhận định cho rằng: “Những người hạnh phúc là những người biết khám phá những niềm vui nhỏ nhoi ngay trong ta, quanh ta thôi, miễn là ta biết ngạc nhiên, tỉnh thức, khám phá của trẻ thơ”. Có lẽ chính những niềm vui bình dị bất ngờ được phát hiện đó, đã mang đến cho Kim Thánh Thán (danh sĩ Trung Hoa) niềm khoái cảm như ông đã kể lại, chẳng hạn như khi “… mở rương, vô tình được một lá thư của cố nhân” hoặc “mở cửa sổ cho con ong bị kẹt bay ra, chẳng cũng khoái ư?” (Lâm Ngữ Đường, Sống đẹp).
Nếu đồng cảm, chấp nhận cách tiếp cận hạnh phúc một cách đơn giản nhưng tinh tế như thế, chúng tôi nghĩ rằng đa số người về hưu nhất là nhà giáo không khó tìm thấy được cảm giác thanh thản, dễ chịu, cũng như sự vừa lòng có thể thích ứng với cuộc sống vốn không ít những điều khó khăn, nhưng thường tiềm ẩn nhiều điều thú vị, hạnh phúc bất ngờ… nếu chúng ta biết “khám phá” và luôn biết “ngạc nhiên”.
Trước đây, khi còn là nhà giáo tại chức, sau một năm làm việc cực nhọc chúng ta được nghỉ ngơi trong mấy tháng hè. Nay đã về hưu, tại sao không coi đây như là kỳ nghỉ hè dài hạn đầy thú vị, sau bao năm đã bỏ nhiều công sức để dạy dỗ, dìu dắt các thế hệ học sinh của mình. Từ đây, ta hoàn toàn tự do, tự chủ sắp xếp thời gian, chương trình cuộc sống còn lại của ta. Tất nhiên giờ đây quỹ thời gian còn lại hạn hẹp, sức khỏe ngày càng suy giảm, nên chúng ta chỉ có thể nhắm đến các mục tiêu cụ thể, ngắn hạn. Nhưng bù vào đó, ta có thể chủ động nâng cao chất lượng, ý nghĩa cuộc sống sao cho phù hợp với tuổi già cũng như đặc điểm, sở thích riêng của từng người. Phải coi năm tháng còn lại như thứ quà tặng “hưởng lạc dư niên”, cần tăng thêm giá trị chất lượng sống “(quality of life). Và phải “thêm đời sống vào tuổi tác” (adding life to years) chứ không phải chồng chất năm tháng lên đời sống (not just adding to life) như tổ chức Who đã đề ra.
Cho nên, từ đây mỗi buổi sáng thức dậy ta hân hoan vì sắp có thêm một ngày vui mới được cộng vào tuổi đời. Chiều đến, ta tự nhủ vừa được hưởng thêm một ngày thanh thản bình an. Rồi ngày mai lại đến, ta nên cám ơn cuộc đời vì sẽ có thêm một ngày để thương yêu và được thương yêu, như lời tự tình trong câu thơ quen thuộc của nhà thơ nổi tiếng Li-băng Gibran (1883-1931):

“Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm một ngày để yêu thương”
(Một nhà văn Việt Nam đã dịch từ bản tiếng Anh)

Có lẽ đây cũng chính là niềm vui hưởng lạc dư niên và là thứ hạnh phúc bình dị cuối đời có thể có được ở tuổi hưu, tuổi già của chúng ta./.

N.H.H (Bình Dương)

* Sách tham khảo

1/ André Maurois, Một nghệ thuật sống, bản dịch của Hoàng Thu Đông XBTH 1997
2/ Đỗ Hồng Ngọc, Già ơi…Chào bạn!, NXB TP HCM 2009
3/ Bertrand Russell, chiến sĩ tự do và hòa bình, Nguyễn Hiến Lê, NXB Lửa Thiêng 1971.
4/ B/s Nguyễn Ý Đức, An hưởng tuổi vàng, NXB Y Học 2002.
5/ Lâm Ngữ Đường, Sống đẹp, NXB Nguyễn Hiến Lê, 1964.
Read more…

CÁCH NHẬP COMMENT TRÊN HƯƠNG QUÊ NHÀ

Đầu tiên, nhấp chuột vào ô Nhập nhận xét của bạn rồi viết comment. Viết xong, nhấp chuột vào ô Tài khoản Google. Sau đó nhấp chuột vào Tên/URL thì sẽ hiện ra 2 ô. Ô phía trên, ghi Họ và tên của bạn. Ô phía dưới, ghi dòng chữ:huongquenha.com

Cuối cùng, nhấp chuột vào ô Tiếp tục và nhấp chuột tiếp vào ô Xuất bản là xong. (Nếu bạn đã có sẵn Tài khoản Google, thì sau khi viết comment, chỉ cần nhấp chuột vào ô Xuất bản là thành công)

Số lượt xem tháng trước


-------------------------------------------------------------------------


TÁC GIẢ & TÁC PHẨM
* TÁC GIẢ & TÁC PHẨM * TÁC GIẢ & TÁC PHẨM * TÁC GIẢ & TÁC PHẨM * TÁC GIẢ & TÁC PHẨM---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ái Nhân (21) Ambrose Bierce (1) ẢNH (58) Anh Ngọc (1) Anh Nguyên (1) Anh Phong (4) Anh Phương (9) âm nhạc (2) âm thanh (1) Ân Thiên (1) Bạch Diệp (5) Bách Mỵ (2) BÀN TRÒN VĂN NGHỆ (87) Bảo Hồ (1) Bảo Lâm (1) Bảo Ninh (2) Bé Hải Dân (1) Bích Ái (3) Bích Lê (4) Bích Ngọc (1) Bích Vân (2) Bình Địa Mộc (3) Bình Nguyên (1) Bình Nguyên Trang (2) binh pháp (1) Bình Tâm (1) Bobby Nam Giang (3) Bùi Anh Sắc (1) Bùi Công Thuấn (1) Bùi Danh Hải Phong (1) Bùi Đức Ánh (66) Bùi Hoài Vân (5) Bùi Huyền Tương (2) Bùi Hữu Phước (1) Bùi Nguyên Bằng (25) Bùi Nhựa (4) Bùi Văn Bồng (5) Bùi Việt Thắng (2) BÚT KÝ (17) Ca Dao (2) Cao Duy Thảo (1) Cao Kim Quy (1) Cao Thị Thu Hà (3) Cao Thọ Thêm (2) Cao Thoại Châu (1) Cao Thu Hà (1) Cao Trọng Quế (1) Cao Văn Tam (5) Cát Du (7) Catherine Mansfield (1) Cẩm Lệ (4) Cẩm Tú Cầu (1) Chàng Cát (1) Chánh Đức (1) CHÀO XUÂN 2014 (1) CHÂN DUNG VĂN NGHỆ SĨ (2) Châu Đoàn (1) Châu Quang Phước (1) Châu Thạch (9) Châu Thường Vinh (1) Chí Anh (1) Chính Đức (1) chủ (1) CHỦ BIÊN (141) Chu Giang Phong (1) Chu Lai (2) Chu Ngạn Thư (10) Chu Trầm Nguyên Minh (16) Chu Vương Miện (1) Chúa Sơn Lâm (1) Cỏ Dại (7) covid 19 (1) Công Nguyễn (1) Cơ Xương (1) Cúc Dương (1) Cuộc thi văn chương (1) CỬA SỔ VĂN HÓA (6) Dạ Ngân (1) Dã Phong Bình (2) Dã Phương (1) Dạ Thảo (2) Dạ Thy (1) Diệp Linh (18) Diệp Uy (1) Dino Buzzati (3) DỌC ĐƯỜNG (29) Du Tử Lê (1) Dung Thị Vân (28) Duy Bằng (1) Duy Phạm (6) Dương Diệu Minh (1) Dương Đăng Huệ (1) Dương Hải Yến (2) Dương Hằng (7) Dương Kim Nhi (4) Dương Kim Thoa (1) Dương Phương Vinh (1) Dương Thành Thái (3) Dương Thị Yến Trinh (2) Dương Xuân Triều (6) Dzạ Lữ Kiều (6) Đàm Lan (17) Đan Ngọc (2) đạo đức (2) Đào Hiền (2) Đào Hữu Thức (2) Đào Khương (2) Đào Minh Hiệp (2) Đào Phạm Thuỳ Trang (82) Đào Quang Bắc (1) Đào Quý Thạnh (1) Đào Thanh Hoà (14) Đào Thị Quý Thanh (1) Đào Thị Thu Hiền (3) Đào Văn Đạt (31) Đào Viết Bửu (7) Đặng Châu Long (1) Đặng Diệu Thoa (1) Đăng Đăng (1) Đăng Huỳnh (1) Đặng Quốc Khánh (8) Đặng Quý Địch (3) Đặng Tấn Tới (2) Đặng Thị Hoa (2) Đặng Thị Xuân (1) Đặng Toán (1) Đăng Trình (1) Đặng Tường Vy (3) Đặng Văn Sử (1) Đặng Việt Trinh (1) Đặng Xuân Xuyến (9) ĐIỂM BÁO (2) Điêu Thuyền (1) Đinh Lốc (2) Đình Thậm (1) Đinh Vương Khanh (4) Đoàn Khương Duy (1) Đoàn Thị Minh Hiệp (4) Đoàn Tình (1) Đoàn Tuyết Thu (1) Đoản văn (1) ĐỌC SÁCH (30) Đỗ Chiến Thắng (6) Đỗ Duy Hoàng (15) Đỗ Hồng Ngọc (5) Đỗ KIm Dung (1) Đỗ Phu (1) Đỗ Quyên (2) Đỗ Tâm Linh (1) Đỗ Tấn Đạt (2) Đỗ Thị Kim Hải (2) Đỗ Trúc Hàn (1) Đỗ Văn Tiến (1) Đỗ Xuân Phương (1) Đức Linh (1) Đức Tiên (3) Elena Pucillo Truong (6) gan jing world (1) Ghi chép (2) Giang Đình (8) Giang Hiền Sơn (6) Giáo dục (1) Guy de Maupassant (1) Hà Đoàn (2) Hạ Ly (1) Hà Nguyên (2) Hà Nhữ Uyên (2) Hà Phi Phượng (1) Hạ Thi (3) Hà Thị Thu Hằng (1) Hà Tùng Sơn (1) Hải Điểu (1) Hải Miên (3) Hải Phong (2) Hải Thăng (1) Hải Thuỵ (6) Hải Yến (2) Hàm Sơn (1) Hàn Dã Thảo (2) Hàn Du Tử (17) Hàn Hữu Yên (1) Hàn Lâm (1) Hãn Nguyên Nguyễn Nhã (1) Hàn Nguyệt (1) Hàn Phong Vũ (19) Hàn Tín (1) Hạng Vũ (1) Hậu Cốc Ngang (1) Hậu Đậu (1) Hiếu Dũng (1) Hoa Hướng Dương (1) Hoa Mai (2) Hoa Tím Buồn (4) Hoa Tuyết (2) Hoà Văn (10) Hoa Xuyến Chi (1) Hoài Huyền Thanh (53) Hoan Giang (1) Hoàng Anh (6) Hoàng Anh 79 (26) Hoàng Chẩm (53) Hoàng Chẫm (1) Hoàng Đình Quang (2) Hoàng Giao (4) Hoàng Hạ Miên (6) Hoàng Hữu (1) Hoàng Khánh Duy (5) Hoàng Kim (1) Hoàng Kim Chi (1) Hoàng Kim Oanh (2) Hoàng Linh (6) Hoàng Long (2) Hoàng Lộc (8) Hoàng Mẫn (1) Hoàng Minh Tường (2) Hoàng Nghĩa Lược (1) Hoàng Ngọc Xuân (4) Hoàng Nguyên (1) Hoàng Phủ Ngọc Tường (1) Hoàng Thảo Chi (1) Hoàng Thị Bích Hà (1) Hoàng Thị Nhã (8) Hoàng Thị Thu Thủy (2) Hoàng Trang (1) Hoàng Trần (1) Hoàng Trọng Quý (9) Hoàng Trọng thắng (1) Hoàng Tuấn Sơn (1) Hoàng Tuyên (2) Hoàng Vũ Thuật (1) Hoàng Xuân Hiến (1) Hoàng Xuân Niên (1) Hồ Bích Ngọc (4) Hồ Bích Vân (2) Hồ Đắc Thiếu Anh (1) Hồ Hải (2) Hồ Lê Diêm (1) Hồ Nam (1) Hồ Ngọc Diệp (1) Hồ Nhật Quang (1) Hồ Sĩ Duy (1) Hồ Thanh Ngân (10) Hồ Thế Hà (2) Hồ Thế Phất (3) Hồ Thế Sinh (1) Hồ Tĩnh Tâm (1) Hồ Tịnh Thuỷ (21) Hồ Vũ Khánh Linh (1) Hồ Xuân Thu (3) Hội Nhà văn TP. HCM (1) Hồng Hạnh (3) Hồng Liễu (1) Hồng Phúc (8) Hồng Tâm (10) Huệ Triệu (3) HUMICHI (5) Huy Nguyên (15) Huy Vọng (17) Huy Vũ (1) Huyết Kiệt (1) Huỳnh Dạ Thảo (1) Huỳnh Gia (18) Huỳnh Kim Bửu (1) Huỳnh Minh Lệ (2) Huỳnh Ngọc Nga (1) Huỳnh Ngọc Phước (29) Huỳnh Như Phương (1) Huỳnh Thanh Lan (1) Huỳnh Thị Quỳnh Nga (1) Huỳnh Thúy Thúy (1) Huỳnh Văn Diệu (1) Huỳnh Văn Mỹ (1) Huỳnh Văn Yên (1) Huỳnh Xuân Sơn (3) Hương Đêm (1) Hương Đình (4) Hương Quê Nhà (1) Hương Văn (6) Hửu Thỉnh (1) Irina Polianxkaia (1) James Dylan (4) James Joyce (1) Jeffrey Thai (9) Jerry Thu Trà (7) Kai Hoàng (1) Kate Chopin (1) Kha Tiệm Ly (4) Khả Xuân (1) Khán Võ (2) Khảo Mai (1) khoa học (1) Khổng Trường Chiến (3) Khổng Vĩnh Nguyên (1) KỊCH BẢN (1) Kiên Giang (1) Kiến Giang (12) Kiều Huệ (1) Kim Chuông (4) Kim Dung (2) Kim Ngoan (15) Kim Quyên (1) Kim Sơn Giang (22) Kim Tiết (10) Kim Yến (1) Kỳ Nam (2) Ký sự (14) Lã Bố (1) La Hán (1) La Mai Thi Gia (1) Lạc Thảo (1) Lại Ngọc Thư (1) Lam Giang (3) Lan Anh (1) Lan Phương (1) Lan Thanh (1) Lãng Du (6) Lâm Bích Thuỷ (8) Lâm Cẩm Ái (3) Lâm Hạ (11) Lâm Huy Nhuận (1) Lâm Trúc (30) Lâm Xuân Vi (1) Lâu Văn Mua (1) Lê Ân (5) Lê Bá Duy (9) Lê Đình Danh (79) Lê Đức Hoàng Vân (1) Lê Đức Lang (13) Lê Giang Trần (1) Lệ Hằng (3) Lê Hoài Lương (4) Lê Hoàng (2) Lê Hứa Huyền Trân (39) Lê Khánh Luận (1) Lê Minh Chánh (1) Lê Minh Dung (2) Lê Minh Hải (3) Lê Minh Vũ (3) Lê Ngân (3) Lê Ngọc Phái (1) Lê Ngọc Trác (1) Lê Ngũ Nam Phong (11) Lê Nhựt Triết (8) Lê Phương Châu (30) Lê Quang Trạng (23) Lê Sa Long (2) Lê Thanh Hùng (34) Lê Thanh My (8) Lê Thấu (1) Lê Thị Cẩm Tú (6) Lê Thị Hồng Thắm (1) Lê Thị Kim (1) Lê Thị Ngọc Lệ (1) Lê Thị Ngọc Nữ (33) Lê Thị Thu Hiền (1) Lê Thị Xuyên (13) Lê Thiếu Nhơn (15) Lê Thống Nhất (6) Lê Thụy Phương (2) Lê Tiến Dũng (1) Lê Tiến Mợi (6) Lê Trọng Nghĩa (3) Lê Trung Hiếu (1) Lê Tuân (4) Lê Uyên (1) Lê Văn Hiếu (12) Lê Văn Ngăn (3) Lê Vi Thuỷ (1) Lê Vinh (4) Lê Xuân Tiến (1) Lindsay Polak (1) Linh Lan (7) Linh Lan (Quảng Nam) (8) Linh Phương (3) Linh Thy (2) Long Khánh (4) Long Vương (1) luân hồi (1) Lữ Hồng (3) Lư Nhất Vũ (1) Lương Cẩm Quyên (1) Lương Duyên Thắng (3) Lương Đình Khoa (1) Lương Sơn (27) Lưu Ly (6) Lưu Quang Minh (15) Lưu Thành Tựu (1) Lưu Thị Mười (2) Lưu Xuân Cảnh (2) Lý Khánh Vinh (15) Lý Thành Long (1) Lý Thời Miễn (1) M.T.N.H (7) Mã Nhị Lan (1) Mạc Minh (2) Mạc Tố Hồng (1) Mạc Tường (2) Mai Đức Trung (6) Mai Hạnh (1) Mai Kiệm (1) Mai Loan (12) Mai Nhật (2) Mai Thanh (1) Mai Thị Vân (1) Mai Thìn (3) Mai Tuyết (37) Mang Viên Long (63) Marie Hải Miên (4) Mẫu Đơn (1) Mèo Con (1) Mi Thu (1) Miên Đức Thắng (2) Miên Linh (1) Minh Châu (2) Minh Đan (Lọ Lem Đất Võ) (6) Minh Nguyên (15) Minh Nguyễn (3) Minh Nguyệt (15) Minh Nguyệt (NT) (1) Minh Nhân Tông (1) Minh Vy (25) Mỗi tháng một tác giả và một bài thơ hay (2) Mộng Cầm (8) Mộng Nam (1) Mùa Xanh (3) Mưa (1) Mường Mán (1) MỸ THUẬT (6) My Tiên (1) Mỹ Vân (1) Nam Art (2) Nam Cao (1) Nam Thi (17) Năm Bửu (1) Nấm Độc (1) NCCGL (4) Ngàn Thương (33) Ngày Đẹp Tươi (1) nghệ thuật. (1) nghiên cứu (1) Ngọc Bút (8) Ngọc Diệp (35) Ngọc Thịnh (1) Ngô Càn Chiểu (1) Ngô Cự Chính (2) Ngô Diệp (6) Ngô Đình Hải (7) Ngô Hồng Nhung (1) Ngô Liêm Khoan (1) Ngô Minh Trãi (3) Ngô Nguyên Ngiễm (1) Ngô Thị Hoà (1) Ngô Thị Ngọc Diệp (10) Ngô Thuý Nga (30) Ngô Thúy Nga (16) Ngô Thy Học (7) Ngô Văn Cư (52) Ngô Văn Giảng (11) Ngô Văn Khanh (17) Ngô Viết Hòa (2) Nguyễn (1) Nguyễn An Bình (70) Nguyễn An Đình (4) Nguyễn Ánh 9 (1) Nguyễn Bá Nhân (1) Nguyễn Bích Sao Linh (1) Nguyễn Bình (1) Nguyễn Bính Hồng Cầu (2) Nguyên Cẩn (26) Nguyễn Châu (2) Nguyễn Chinh (4) Nguyễn Công Thụ (2) Nguyễn Công Tùng Chinh (1) Nguyễn Cử Tú Quỳnh (2) Nguyên Diệp (1) Nguyễn Dũng (1) Nguyễn Duy Khương (6) Nguyễn Duy Phương (1) Nguyễn Duy Thịnh (3) Nguyễn Đại Duẩn (2) Nguyễn Đặng Mừng (3) Nguyễn Đăng Thanh (20) Nguyễn Đăng Trình (4) Nguyễn Đình Bảng (1) Nguyễn Đình Trọng (1) Nguyễn Đoan Tuyết (25) Nguyễn Đồng Bội Thảo (1) Nguyễn Đức Chính (5) Nguyễn Đức Cơ (1) Nguyễn Đức Mậu (2) Nguyễn Đức Minh (6) Nguyễn Đức Minh Hùng (10) Nguyễn Đức Nhân (1) Nguyễn Đức Phú Thọ (26) Nguyễn Đức Quyền (4) Nguyễn Đức Tấn (6) Nguyễn Đức Tình (4) Nguyễn Gia Long (1) Nguyên Hạ (11) Nguyễn Hải Thảo (2) Nguyễn Hậu (2) Nguyễn Hiếu (8) Nguyễn Hiếu Học (2) Nguyễn Hòa Hiệp (2) Nguyễn Hoài Ân (1) Nguyễn Hoàng Thức (2) Nguyễn Hồng Diệu (1) Nguyễn Huệ (3) Nguyên Hùng (1) Nguyễn Huy (3) Nguyễn Huy (HD) (1) Nguyễn Huy Khôi (1) Nguyễn Huỳnh (1) Nguyễn Hữu Minh (1) Nguyễn Hữu Phú (1) Nguyễn Hữu Quý (2) Nguyễn Hữu Thuần (4) Nguyễn Hữu Trung (2) Nguyễn Khiêm (1) Nguyễn Khoa Đăng (51) Nguyễn Kiều Lam (2) Nguyễn Kiều Phương (3) Nguyễn Kim Hương (7) Nguyễn Kim Thịnh (1) Nguyễn Lam (2) Nguyễn Lương Vỵ (4) Nguyên Minh (1) Nguyễn Minh Dũng (46) Nguyễn Minh Hoà (1) Nguyễn Minh Khiêm (1) Nguyễn Minh Nguyệt (1) Nguyễn Minh Phúc (47) Nguyễn Minh Quang (5) Nguyễn Minh Thuận (9) Nguyễn Minh Toàn (1) Nguyễn Mỳ (1) Nguyễn Mỹ Nữ (3) Nguyễn Nga (14) Nguyễn Nghiêm (3) Nguyễn Ngọc Dũng (1) Nguyễn Ngọc Đặng (1) Nguyễn Ngọc Hà (4) Nguyễn Ngọc Hưng (6) Nguyễn Ngọc Minh Anh (1) Nguyễn Ngọc Thơ (31) Nguyễn Ngọc Tư (5) Nguyễn Nguy Anh (21) Nguyễn Nguyên Phượng (69) Nguyễn Nhật Hùng (4) Nguyễn Như Tuấn (14) Nguyễn Phin (30) Nguyên Phong (1) Nguyễn Phú Yên (8) Nguyễn Phượng (2) Nguyễn Phương Dung (2) Nguyễn Quang Quân (8) Nguyễn Quang Tâm (2) Nguyễn Quang Tuấn (1) Nguyễn Quân (2) Nguyễn Quốc Ái (1) Nguyễn Quốc Bảo (1) Nguyễn Quốc Đông (1) Nguyễn Quy (2) Nguyên Tâm (1) Nguyễn Tấn Thuyên (3) Nguyễn Thái An (3) Nguyễn Thái Dương (6) Nguyễn Thái Huy (35) Nguyễn Thành Công (48) Nguyễn Thành Giang (22) Nguyễn Thanh Hải (1) Nguyễn Thanh Huyền (8) Nguyễn Thanh Mừng (1) Nguyễn Thánh Ngã (1) Nguyễn Thành Nhân (18) Nguyễn Thanh Tuấn (7) Nguyễn Thanh Xuân (2) Nguyễn Thế Kiên (1) Nguyễn Thế Kỷ (1) Nguyễn Thị Ánh Huỳnh (2) Nguyễn Thị Bích Phượng (2) Nguyễn Thị Cẩm Thuỳ (3) Nguyễn Thị Chi (2) Nguyễn Thị Diệu Hiền (3) Nguyễn Thị Hải (1) Nguyễn Thị Hằng (7) Nguyễn Thị Hậu (1) Nguyễn Thị Hồng Đào (10) Nguyễn Thị Huệ (1) Nguyễn Thị Kim Huệ (2) Nguyễn Thị Mây (127) Nguyễn Thị Ngọc Hải (1) Nguyễn Thị Ngọc Sen (2) Nguyễn Thị Như Tâm (3) Nguyễn Thị Phụng (27) Nguyễn Thị Thanh Bình (6) Nguyễn Thị Thành Nhân (1) Nguyễn Thị Thanh Toàn (1) Nguyễn Thị Thanh Xuân (1) Nguyễn Thị Thu Ba (23) Nguyễn Thị Thu Hiền (1) Nguyễn Thị Thu Hoài (1) Nguyễn Thị Thu Thuý (3) Nguyễn Thị Thùy Linh (3) Nguyễn Thị Tiết (3) Nguyễn Thị Tuyết (1) Nguyễn Thị Việt Hà (39) Nguyễn Thị Xuân Hương (14) Nguyễn Thu Hằng (1) Nguyễn Thủy (4) Nguyễn Thúy Ngân (13) Nguyễn Thuý Quỳnh (2) Nguyễn Thường Kham (3) Nguyễn Thượng Trí (2) Nguyễn Tiến Đường (8) Nguyễn Trần (1) Nguyễn Trí Tài (40) Nguyễn Trọng Luân (2) Nguyễn Trung (1) Nguyễn Trung Nguyên (1) Nguyễn Tuyển (4) Nguyễn Văn Ân (68) Nguyễn Văn Bút (6) Nguyễn Văn Công (2) Nguyễn Văn Cường (CCK) (4) Nguyễn Văn Hiến (5) Nguyễn Văn Hoà (5) Nguyễn Văn Hòa (2) Nguyễn Văn Học (54) Nguyễn Văn Ngọc (1) Nguyễn Văn Thanh (1) Nguyễn Văn Thành (1) Nguyễn Văn Thảo (17) Nguyễn Văn Toan (1) Nguyên Vi (1) Nguyễn Việt Hà (2) Nguyễn Vinh (1) Nguyễn Vĩnh Bình (3) Nguyễn Xuân Cảm (3) Nguyễn Xuân Dương (1) Nguyễn Xuân Khánh (1) Nguyễn Xuân Thuỷ (1) Nguyễn Xuân Thủy (1) Nguyễn Xuân Tư (3) Nguyệt Linh (5) Nguyệt Quế (1) Ngưng Thu (44) Nhã Ngọc (1) Nhã Thiên (7) nhà Thương (1) Nhân Hậu (2) NHÂN VẬT (1) Nhật Nguyệt Xuân Hương (1) Nhật Quang (17) Nhất Sinh (1) Nhật Vũ (1) Nhi Hạ (1) NHỚ THUỞ ẤU THƠ (37) Như Hoài (4) NHỮNG ÁNG VĂN HAY VỀ LÀNG QUÊ VIỆT NAM (7) NHỮNG NGƯỜI BẠN ĐÂT THỦ (6) NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN HQN (5) Nông Quốc Lập (2) NP phan (1) Nửa Đời hư (1) NỬA THÁNG MỘT TÁC GIẢ VÀ MỘT BÀI THƠ HAY (38) nước (1) O. Henry (1) P.N. Thường Đoan (1) Pearl (1) Phạm Ánh (34) Phạm Anh Xuân (3) Phạm Bá Nhơn (2) Phạm Cao Hoàng (1) Phạm Đình Nghi (1) Phạm Hổ (1) Phạm Hữu Hoàng (20) Phạm Kiều Hưng (1) Phạm Lâm (1) Phạm Lê Tường Vi (1) Phạm Minh Dũng (14) Phạm Minh Hiền (9) Phạm Minh Thuận (10) Phạm Mỹ (1) Phạm Ngân (3) Phạm Như Vân (1) Phạm Phan Hòa (1) Phạm Phương Lan (1) Phạm Quỳnh An (1) Phạm Thái Ba (4) Phạm Thị Hải Dương (9) Phạm Thị Liên (1) Phạm Thị Mỹ Liên (30) Phạm Thị Phương Thảo (3) Phạm Thuý (6) Phạm Trần Ái Linh (4) Phạm Trung Tín (2) Phạm Tuấn Vũ (29) Phạm Tử Văn (21) Phạm Văn Phương (16) Phạm Văn Thạnh (1) Phạm Vũ (1) Phan Anh (12) Phan Cung Việt (1) Phan Đức Nam (1) Phan Hoài Thương (1) Phan Hoàng (2) Phan Huỳnh Điểu (1) Phan Hữu Lý (1) Phan Khanh (2) Phan Mai Thư Nhã (6) Phan Nam (20) Phan Quỳnh Như (1) Phan Sửu (1) Phan Tấn Lược (6) Phan Thanh Cương (2) Phan Thị Huỳnh Trang (2) Phan Tiên Phát (1) Phan Tình (1) Phan Trang Hy (25) Phan Văn Bình (1) Phan Văn Thạnh (1) Phan Văn Thuần (3) Phan Vĩnh (1) phần 1 (1) phần 2 (1) phần 3 (1) phần 4 (1) Phiêu Vân (1) Phong Dương (2) Phong Điệp (1) Phỏng vấn (7) Phú Ngọc (1) Phú Quang (3) Phú Xuân (8) Phùng Gia Lộc (1) Phùng Hiếu (10) Phùng Hiệu (1) Phùng Hoàng Chương (1) Phùng Phương Quý (7) Phụng Thiên (1) Phùng Văn Khai (1) Phước Vũ (1) Phương Phương (10) Phương Uy (5) Quan Thế Âm (1) Quảng Ngọc (1) Quảng Ngôn Lê Ngữ (1) Quang Thám (1) Quang Tuấn Dũng (9) Quốc Hùng (2) Quốc Tuyên (1) quy luật dịch (1) Quỳnh Lệ (1) Quỳnh Nga (16) Quỳnh Trâm (1) Rason Helmandollar (1) Raymond Carver (1) Raymond Thư (1) Rêu (Cao Hoàng Từ Đoan) (13) SÁCH BẠN VĂN (71) SARAH HALL (1) SINH NHẬT (1) Song Ninh (11) Sông Hương (11) Sông Lam (1) Sông Song (8) Sơn Tịnh (2) Sơn Trần (15) Sruthi Thekkiam (1) Stephen Crane (1) T.T.Hiếu Thảo (22) Tạ Nghi Lễ (1) Tạ Thị Hoa (14) Tam quốc diễn nghĩa (4) TẢN VĂN (230) TẠP BÚT (623) Tạp chí Văn Mới (1) TẠP CHÍ VN BÌNH DƯƠNG (11) Tashi Dawa (1) Tâm Lãng (1) Tâm Nhiên (2) Tấn Hòa (1) Tần Khánh (4) Tân Vương Huy (1) TẬP SAN ÁO TRẮNG (39) Tập san Văn học nghệ thuật Hương Quê Nhà (1) Tây bá hầu Cơ Phát (1) Tây Du Ký (1) Tây Sơn bi hùng truyện (2) Thạch Anh (2) Thạch Cầu (1) Thạch Đà (7) Thạch Lam (1) Thạch Sene (5) Thái An Khánh (2) Thái Hoà (1) Thanh Bình Nguyên (27) Thành Dũng (1) Thanh Hải (1) Thanh Huyền (2) Thanh Lương (2) Thanh Minh (4) Thanh Phong (1) Thanh Sơn (1) Thanh Thảo (3) Thanh Trắc Nguyễn Văn (42) Thanh Tùng (7) Thành Văn (3) Thạnh Văn (1) Thanh Xuân (2) Thảo Nguyễn (1) Thâm Tâm (1) Thần Y (1) Thi Ngọc Lan (1) Thiên Ân (1) Thiên Di (5) Thiên Sơn (1) Thiên Thần Áo Trắng (7) Thiên Tôn (10) Thiên Trần (1) Thiệp chúc mừng năm mới (4) Thiệp chúc Tết (3) Thiệp mừng (3) Thông báo (1) Thơ (3149) Thơ Lê Nhựt Triết (1) THƠ MỜI HOẠ (7) THƠ PHỔ NHẠC (106) Thời sự Văn nghệ (6) Thu Dung (3) Thu Hằng (1) Thu Hiền (1) Thu Hoài (1) Thu Nga (1) Thuận Thảo (8) Thuận Yến (1) Thục Minh (7) Thuỳ Anh (13) Thuỵ Du (1) Thụy Du (3) Thuỳ Dương (1) Thùy Dương (1) Thủy Điền (1) Thuỳ Nhân (1) Thư cảm ơn (1) Thư ngỏ (1) THƯ NGỎ CỦA HQN (2) Thư tin (285) THƯ VIỆN TÁC GIẢ (1) Tiểu luận (4) Tiểu Mục Đồng (1) Tiểu Nguyệt (5) Tiểu thuyết (107) Tiêu Tương (1) Tin buồn (2) TIN VĂN (2) Tịnh Bình (19) Tịnh Minh Tiến (2) Tô Hồng Phương (1) Tô Kiều Ngân (1) Tố Mai (3) Tô Minh Yến (21) Tôn Nữ Hỷ Khương (2) Tôn Thất Út (2) Tôn Tư Mạc (1) Tống Ngọc Hân (1) Tống Xuân Tám (1) Trà Bình (4) TRABATHA (1) Trác Phi (1) Trang Linh (1) Trang Lộc (1) Trang Thơ Chào Xuân Mậu Tuất 2018 (1) TRANG THƠ CHỦ NHẬT (528) Trang Thơ Đón Xuân Đinh Dậu 2017 (1) TRANG THƠ ĐƯỜNG LUẬT (17) Tranh ảnh (3) Trầm Mặc (4) Trần Anh Dũng (1) Trần Bảo Định (4) Trần Băng Khuê (1) Trần Biên Thùy (1) Trần Dần (1) Trần Duy Đức (17) Trần Dzạ Lữ (4) Trần Định (1) Trần Đình Sử (2) Trần Đoàn Luận (1) Trần Đức ÁI (2) Trần Đức Hiển (1) Trần Đức Tín (1) Trần Hà Nam (4) Trần Hoàng Vy (2) Trần Hồng Vân (5) Trần Huiền Ân (2) Trần Huy Minh Phương (2) Trần Hữu Du (1) Trần Hữu Hội (17) Trần Kim Đức (5) Trần Kim Loan (2) Trần Kim Quy (1) Trần Lê Sơn Ý (2) Trần Linh Chi (1) Trần Long Thạch (1) Trần Lưu (1) Trần Mai Hường (11) Trần Mạnh Hảo (1) Trần Minh Nguyệt (16) Trần Năm (1) Trần Ngọc Hồ Trường (4) Trần Ngọc Mỹ (11) Trần Nguyên Hạnh (6) Trần Nhã My (2) Trần Như Luận (3) Trần Nhương (1) Trần Phù Nam (1) Trần Quang Dũng (4) Trần Quang Khanh (12) Trần Quang Lộc (1) Trần Quang Ngân (10) Trần Quốc Tiến (8) Trần Quốc Toàn (1) Trần Quốc Việt (1) Trần Tâm (7) Trần Thái Hưng (5) Trần Thanh Hải (3) Trần Thành Nghĩa (1) Trần Thế Nhân (13) Trần Thị Bích Thu (1) Trần Thi Ca (9) Trần Thị Cổ Tích (2) Trần Thị Huệ (1) Trần Thị Huyền Trang (3) Trần Thị Mai (1) Trần Thị Ngọc Hồng (1) Trần Thị Thanh (5) Trần Thị Thắng (1) Trần Thị Thương Thương (4) Trần Thị Trúc Hạ (1) Trần Thị Uyên (8) Trần Thiện (3) Trần Thiện Tuấn (1) Trần Thoại Nguyên (2) Trần Thuận (7) Trần Thúy Lành (6) Trần Thuỳ Trang (1) Trần Thư (1) Trần Thương Nhiều (1) Trần Trọng Hưng (2) Trần Trọng Tân (1) Trần Trọng Vũ (2) Trần Tuấn Anh (2) Trần Tuấn Thanh (10) Trần Vạn Giã (2) Trần Văn Bạn (16) Trần Văn Nhân (5) Trần Văn Thiên (1) Trần Việt (1) Trần Viết Dũng (11) Trần Võ Thành Văn (24) Triết học (2) Triều Âm (2) Triều Châu (1) Triều La Vỹ (2) Triệu Lam Châu (1) Triệu Từ Truyền (30) Trịnh Bửu Hoài (106) Trịnh Duy Sơn (2) Trịnh Hoài Linh (5) Trịnh Huy (4) Trịnh Thuỳ Mỹ (1) Trịnh Tuyên (1) Trịnh Viết Hiền (1) Trịnh Viết Hiệp (1) Trịnh Yến (2) Trọng Mật (2) trụ vương (1) Trúc Giang (4) Trúc Lập (1) Trúc Linh Lan (2) Trúc Thanh Tâm (12) Trúc Thuyên (3) trung quốc (1) Trung Trung Đỉnh (1) Trung Y (1) Truong Nguyen (1) Truyện dài (10) TRUYỆN DỊCH (17) Truyện ký (2) TRUYỆN NGẮN (1173) TRUYỆN VỪA (14) Trương Công Tưởng (16) Trương Diễm Phiến (1) Trương Đình Phượng (8) Trương Đình Tuấn (3) Trương Hồng Phúc (14) Trương Huỳnh Như Trân (2) Trương Lan Anh (1) Trương Nam Chi (5) Trương Thanh Cường (2) Trường Thắng (65) Trương Thị Thanh Tâm (22) Trương Thị Thúy (2) Trường Thịnh (6) Trương Tri (2) Trương Văn Dân (21) Trương Viết Hùng (1) TTM (1) Tuấn Nguyễn (7) Tuấn Quỳnh (3) Tuệ Mỹ (1) Tuti (2) Tuỳ bút (2) TÙY BÚT (120) Tuyết Nhung (2) Tuyết Vân (1) tứ đại mỹ nhân (1) Tường Vi (1) TX (1) Út Lãng Tử (1) Uyên Khuê (2) Uyên Minh (1) Uyển Phan (1) Vạn Lộc (1) Vành Khuyên (1) Văn (2482) Văn Công Mỹ (2) văn hóa truyền thống (5) Văn học nước ngoài (13) Văn Lưu (1) Văn Nguyên (1) Văn Nguyên Lương (7) Văn Nhược Ba (1) Văn Thạnh (2) Văn Thành Lê (1) Văn Thắng (23) Văn Trọng Hùng (1) Vân Đồn (3) Vân Giang (12) Vân Khanh (2) Vân Phi (32) Vân Tùng (2) Vi Ánh Ngọc (2) Vi Quốc Hiệp (1) Victor Remizov (1) VIDEO CLIP (2) Viễn Trình (25) Việt Quỳnh (1) Việt Trang (1) Việt Trương (1) Vĩnh Sơn (7) Vĩnh Thông (43) Vĩnh Tuy (21) Võ Bá Cường (1) Võ Chân Cửu (17) Võ Chí Nhất (3) Võ Công Liêm (1) Võ Diệu Thanh (18) Võ Dõng (1) Võ Đông Điền (4) Võ Hà (1) Võ Hạnh (2) Võ Mỹ Cát (1) Võ Ngọc Thọ (4) Võ Như Văn (3) Võ Thị Nga (13) Võ Thị Thu Thủy (1) Võ Thuỵ Như Phương (15) Võ Văn Hoa (1) Võ Văn Luyến (1) Võ Xuân Phương (3) Vũ Bình Lục (1) vũ đạo (1) Vũ Đình Huy (9) Vũ Đình Liên (1) Vũ Đình Minh (1) Vũ Đình Nguyệt (2) Vũ Đình Thung (2) Vũ Đức Trọng (1) Vũ Hạ (1) Vũ Hạnh (3) Vũ Hùng (2) Vũ Miên Thảo (5) Vũ Thành An (1) Vũ Thị Huyền Trang (115) Vũ Thụy Khuê (8) Vũ Trọng Quang (1) Vũ Trọng Tâm (2) Vũ Trọng Thanh (1) Vương Doãn (1) Vương Hạnh (1) Vương Hoài Uyên (4) Vương Tâm (3) Xanh Nguyên (4) Xuân Đài (1) Xuân Phong (6) Xuân Phương (1) Xuân Tiến (20) Ý Thu (3) Yên Kha (7) Ziken (2)
-------------------------------------------------------------------------
+ 817 TÁC GIẢ CÓ BÀI ĐĂNG TRÊN HƯƠNG QUÊ NHÀ
-------------------------------------------------------------------------