Có lẽ mọi chuyện bắt đầu từ
ngày đó, cái ngày anh còn là một cậu bélên mười suốt ngày cùng lũ trẻ chăn bò
mải chơi trên cánh đồng sau mùa gặt tháng chín bắt gặp cầu vồng phía trước mặt.
Đó không phải lần đầu anh nhìn thấy cầu vồng. Mấy năm trước anh thường nghe
hàng xóm kháo nhau rằng dưới chân cầu vồng người ta đang cất giấu kho báu. Thời
gian đó, trong giấc ngủ của cậu bé lên tám luôn có hình ảnh rực rỡ của cầu
vồng. Vả lại, lần đó cầu vồng gần gũi, đẹp đẽ và quyến rũ đến lạ kỳ. Anh có cảm
giác chỉ cần đưa cánh tay nhỏ bé, khẳng khiu và đen đúa ra thì tức khắc chạm
được cầu vồng hoặc chỉ vài bước chân là anh có thể đến được chân cầu vồng.
“Chạy đến đó đi”, anh háo hức chỉ tay
về phía cầu vồng.
Sau một lúc lưỡng lự cả đám trẻ cùng
cắm cổ chạy. Chạy mãi, cầu vồng cứ trong tầm tay với.
Bọn trẻ tiếp tục chạy, cầu vồng vẫn ở
phía trước và rồi bọn trẻ đành phải bỏ cuộc: dòng sông sâu, rộng, nước chảy
xiết chắn ngang trước mặt. Hụt hơi, bọn trẻ đứng nhìn cầu vồng như bật lên giữa
dòng sông.
Đêm đó, trong giấc ngủ chập chờn cầu
vồng lại hiển hiện cùng với kho báu. Suốt tháng liền anh luôn mơ thấy cầu vồng.
Sau này, khi đã là cậu học sinh phổ
thông trung học, anh lại bắt gặp cầu vồng. Vẫn dáng vẻ xưa, lộng lẫy, đẹp đẽ,
quyến rũ và gần gũi, cầu vồng khiến ngực anh đau nhói.
Trên chiếc xe cọc cạch anh cật lực
đạp. Cầu vồng ở phía trước như vẫy gọi, như chờ đợi. Đường cái quan bỗng rẽ
hướng, anh buộc phải đi vào con đường bờ mương đầy lỗ chân trâu. Cầu vồng ở
đằng kia, nhô lên từ rặng cây cổ thụ, nằm sâu trong xóm. Anh lại cho xe đạp
cưỡi lên bờ ruộng hẹp cũng chi chít vết chân trâu và dấu chân người được hình
thành nên từ cơn mưa đầu mùa, đi vào làng. Đường làng nhỏ, nhấp nhô những gờ
đất, đan xen, rối rắm và luôn bị che khuất bỡi cây cối um tùm và nhà cửa mọc
gần sát nhau. Anh cảm thấy lúng túng, bực bội, ngạt thở và gần như không thể tự
chủ. Nhiều lần anh đạp xe tiến lên, cứ đinh ninh rằng sẽ đến được chân cầu vồng
nhưng đường làng lại rẽ ngang hoặc chuyển hướng đột ngột. Lòng vòng, đôi lần,
anh quay lại chỗ cũ. Trong khoảng không gian hẹp, có lúc, anh thấy cầu vồng
hiện ra rực rỡ ở lưng chừng trời. Loay hoay mãi rồi anh cũng xác định được con
đường dẫn đến chân cầu vồng. Đôi chân rã rời của anh lại bắt chiếc xe đạp cọc
cạch nhảy cẩng liên tục trên con đường đất đầy xác lá và cành tre khô. Khi đã
hụt hơi và gần đến đích anh chợt nhận ra đó là con đường cụt. Giăng ra trước
mắt anh hàng tre dày kịt gai nhọn. Phía sau hàng tre cầu vồng trông càng lộng
lẫy, gần gũi và quyến rũ mê hồn. Anh ngẩn ngơ đứng nhìn, chiếc xe đạp cọc cạch
tựa vào đùi anh. Anh đứng như thế, đến khi đàn bò ốm trơ xương thất thểu trở về
chuồng va vào người, anh mới bừng tỉnh. Anh không biết cầu vồng tan biến tự bao
giờ.
Bẵng đi một thời gian dài, có lẽ đã
gần mười lăm năm. Anh không nhìn thấy cầu vồng. Phố xá và nhịp sống công nghiệp
đã tước đi hình ảnh cầu vồng. Và nỗi nhớ cầu vồng cũng vơi dần trong anh. Bây
giờ, anh đã là người thành đạt. Chiếc xe Mercedes đời mới anh tậu năm ngoái là
biểu tượng của quyền lực và sự giàu có những năm đầu thập kỷ 90, minh chứng một
cách thuyết phục rằng anh đã là con người của giới thượng lưu.
Nhưng rồi một ngày kia, trên đường đi
đàm phán với đối tác, anh lại bất chợt bắt gặp cầu vồng. Vẫn dáng vẻ xưa: lộng
lẫy, duyên dáng, thanh tú và quyến rũ nhưng giờ đây cầu vồng đã có dáng vẻ như
một cô gái hoàn mỹ.
Cầu vồng nằm chếch về hướng tây, một
chân cắm xuống vùng trảng của dãy Ngọa Triều, nơi mà cùng hướng con đường đang
đưa xe anh đến, chân kia gác lên cánh rừng xanh thẳm, ngút ngàn ở cuối tầm mắt.
Nối liền hai chân cầu vồng là cái vòng cung bảy sắc.
“Nó kia”, anh reo lên như anh đã reo
cách đây 30 năm, ngày anh cùng đám trẻ rượt bắt cầu vồng nhưng bị dòng sông sâu
chặn lại.
Người tài xế nhìn anh ngơ ngác.
“Cầu vồng, cầu vồng. Bác không thấy
sao?” Anh chỉ tay về phía trước. Người tài xế nhìn theo.
“Ừ”, ông ta ỡm ờ.
“Chạy nhanh lên. Phải đến cho được”,
anh ra lệnh.
Sau phút lưỡng lự, người tài xế dận
ga. Chiếc xe khẽ rùng mình, xé gió lao tới.
“Nhanh nữa lên”, anh giục.
Chỉ một thoáng, cây kim trên bảng đo
tốc độ chỉ đúng vào vạch 160.
“Nhanh lên, không thể nhanh được nữa
sao?”, anh hét.
“Không. Đường sá thế này …”, người tài
xế làu bàu.
Có lẽ người tài xế đã sống đủ lâu để
thấy giá trị cuộc sống.
Chiếc Mercerdes lao đi vùn vụt. Có cảm
giác khoảng cách giữa cầu vồng và chiếc xe thu hẹp lại, nhưng rồi khi cầu vồng
đã ở trong tầm tay với, anh không thể nào tiến gần hơn được nữa. Xe vẫn lao đi
với tốc độ kinh người.
“Nhấn hết ga đi”, anh ra lệnh trong
trạng thái gần như bấn loạn.
“Nguy hiểm lắm”, ông tài xế la lên.
“Nhấn đi”, anh gào.
Chân phải của người tài xế đạp mạnh
lên chân ga. Chiếc xe như đang bay trên mặt đường nhựa. Mắt anh dán chặt vào
cầu vồng. Bỗng phía trước lù lù ngọn núi. Loáng một cái xe anh đã đến chân núi
và con đường quốc lộ lại rẽ trái, vòng theo chân núi. Trên kia, nơi lưng chừng
núi, cầu vồng cắm chặt chân vào đá như vẫy gọi, như thách thức.
Anh ra lệnh cho người tài xế dừng xe
đột ngột. Bánh xe trượt dài trên mặt đường phát ra thứ âm thanh chói tai và bốc
lên mùi khét lẹt của cao su bị đốt cháy. Mở tung cánh cửa xe anh bương bã leo
núi, mùi khét xộc vào mũi anh. Núi dốc, trơn trợt, thiếu vắng cây cỏ, chỉ toàn
thứ chất rắn pha trộn giữa đá và đất, cái thứ đất được hình thành từ sự xâm
thực đá của thời gian. Anh trèo lên, trượt chân, lại bị trôi tuột. Người đẫm mồ
hôi, đôi tay trầy xước, chân như muốn nhũn ra, anh vẫn cứ trèo. Nhiều lần, cái
bụng phệ của anh mài lên mặt núi, anh cảm thấy đau buốt nhưng chính cái sự mài
ấy đã giúp anh tránh được những cú trượt dài. Anh muốn tiến lên nhưng cái bụng
phệ thì cứ trì níu lại. Nó cứ trằn nằng nặng hệt như bụng người đàn bà chửa lúc
bắt đầu chuyển dạ. Cả đôi chân của anh cũng thế và cả thân hình mập mạp thừa ứ
mỡ cũng chống lại anh. Anh như không sao tiến lên được. Gần 30 phút, anh leo
chưa đầy 40 mét. Kiệt sức anh dừng lại, hổn hển thở. Đằng khi, cầu vồng vẫn vẫy
gọi, thách thức.
Rồi cầu vồng chợt tan biến. Anh buông
người ngồi phịch xuống mặt núi đầy đá cuội. Anh ngồi như thế thật lâu. Nắng
trưa bắt đầu thiêu đốt anh. Người tài xế sốt ruột réo gọi. Anh vẫn bất động mắt
dán vào nơi cầu vồng vừa tan biến.
“Không tìm được nó đâu”, người tài xế
nói khi anh đã ngả người lên chiếc ghế đệm của xe.
“Nó
là cái có thực”, một lúc sau anh nói với chính mình.
“Cậu
nói gì ạ”, người tài xế hỏi.
Im
lặng.
Xe
chạy đều đều trên đường.
“Cầu
vồng có gì lạ mà …?” - Tài xế hỏi.
“Lạ
lắm”, anh như nói với chính mình.
“Tôi
chẳng thấy có gì lạ”, tài xế nói.
“Bác
đã đến bên nó, nắm bắt, sờ mó nó chưa?”- Anh có vẻ gắt gỏng.
“Dạ
chưa. Thực ra, nói thì nhiều nhưng có ai đến được cầu vồng đâu.”
Môi
anh nhếch lên, cái nhếch môi cố hữu từ khi anh còn là thằng con trai đi chân
đất.
“Nhưng
ai cũng thấy quen thuộc cầu vồng”, tài xế lại nói.
Môi
anh lại nhếch lên.
“Nhưng
việc quái gì phải khám phá cầu vồng? Hơi đâu lại đi khám phá cầu vồng. Khám phá
cầu vồng là việc làm vô ích”, tài xế nói.
“Trong
cuộc đời này thì việc gì có ích”, anh nổi nóng.
Một
tháng sau, trong một buổi phát lúc 11giờ 30 phút của loạt bài trong chương
trình khám phá bầu trời phát trên sóng truyền hình quốc gia anh bàng hoàng phát
hiện bí mật của cầu vồng. Cái góc bốn mươi lăm độ giữa người nhìn và cầu vồng,
sẽ vĩnh viễn không cho bất cứ một con người nào đến được chân cầu vồng: người
nhìn tiến lên hoặc lùi lại thì cầu vồng cũng tiến lên hoặc lùi lại, giữ một
khoảng cách không thay đổi. Anh gần như đổ ập xuống.
Nhưng
rồi mỗi lần bất chợt bắt gặp cầu vồng, anh lại nhổm dậy chạy đuổi.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét