Nhà văn Thạch Cầu
Làng Sính Thượng độ chục năm nay từ từ
thay đổi quê thành phố xá. Đường ngang lối tắt bê tông hóa hoàn toàn, nhà tầng
đủ kiểu thi nhau mọc. Bao nhiêu là rặng tre và cây cổ thụ người ta đốn gần hết
để nắn đường cho thẳng. Bây giờ tiến sĩ ở đâu mà lắm thế? Giám đốc sao mà nhiều
thế? Rồi thì không biết bằng cách nào họ cứ kéo nhau đi làm ăn vào Nam ra
Bắc và đi lao động nước ngoài. Thiên hạ bảo làng Sính Thượng được đặt trúng
Long mạch.
Cụ Tố là người cao tuổi nhất làng. Người
bộ đội đánh đồi A1 Điện Biên Phủ, thương binh chuyển ngành, làm đến cán bộ văn
hóa cấp tỉnh, rồi hưu trí, bỏ phố thị về với quê nhà. Với cụ, không đâu bằng
quê nhà cả, nơi mà mỗi bước chân đi qua đều đầy ắp kỷ niệm của cuộc đời. Đã
ngoài tám mươi tuổi nhưng cụ còn cuốc bộ đi chợ huyện cách xa bốn cây số. Tinh
thần cụ còn rất minh mẫn, cụ còn làm thơ Đường luật, người ta hay xin cụ câu
đối. Cụ biết tiếng Pháp, thông tường Hán ngữ. Cụ chứng kiến mọi thăng trầm và
biến cố của mảnh đất này. Mấy năm nay, cụ trầm ngâm suy nghĩ nhiều về cái Tết
và cách ứng xử của con người với gia đình và với quê hương bản quán.
Với Tết, nếu để ý thì thấy cứ mỗi năm lại
có một cái gì đó thay đổi. Tết thời phong kiến, kháng Pháp, Tết hòa bình, Tết
đánh Mỹ, Tết thống nhất, Tết đổi mới, Tết mở cửa... Mỗi thời mỗi khác, cuộc
sống càng khấm khá, người ta thường vun vén cho cái Tết được đầy đủ hơn về vật
chất.
Dẫu thời nghèo hay buổi có, Tết có một sự
không thay đổi đó là sự tôn kính, trang nghiêm đến linh thiêng. Tết không những
dành cho người dương trần mà còn cho cả những vong hồn đã khuất. Tết cho mọi
con người, cho mọi gia đình, thôn xóm cho đến cả đất nước này. Tết của sự đoàn
tụ, Tết của nhân tâm. Tết của người già và cho tụi trẻ...
Cụ chứng kiến cái niềm vui chung của con
người với Tết, ai nấy cũng đều vui. Cứ độ hai mươi tháng chạp là làng xóm bắt
đầu chộn rộn, thực sự tất bật lo toan cho một cái Tết. Việc trước hết phải làm
là các dòng họ, gia đình phải đi sửa sang lại các phần mộ. Ai cũng lo một cái
Tết thật chu đáo. Người xa xứ lục tục kéo về, nhà nhà lo dọn dẹp, mua sắm, í ới
hỏi nhau nào nếp, nào thịt, cho đến cái lạt giang buộc bánh.
Nhà nào cũng có ít nhất một cành đào, đang
thì bung nở. Câu đối đỏ dược dán lên trang trọng. Bàn thờ Gia tiên được lau rửa
sạch sẽ, nhà cửa quét dọn sắp đặt lại ngăn nắp. Mọi người lo toan gom góp trả
hết các món nợ vặt, kiêng kỵ không muốn để qua năm, đen đủi.
Thời nhà nước chưa cấm pháo, sang tháng
chạp thì tiếng nổ đã đì đạch ùng oàng khắp nơi. Bây giờ, tuy là cấm, nhưng pháo
lậu vẫn nổ, lúc giao thừa, hoa cà hoa cải sáng rực cả làng, cả xã, càng ngày
càng mất kiểm soát.
Thời khắc giao thừa sao mà linh thiêng đến
thế, khi dâng đồ thờ cúng con người thật chu tất trong cử chỉ, cung kính tự
trong tấm lòng. Thời khắc ấy, mọi thành viên trong gia đình đều ăn mặc đẹp,
nghiêm trang tưởng nhớ Tổ tiên và những người thân khuất núi. Sáng mùng một,
quên cả mệt nhọc do thức khuya để đón giao thừa, mọi người lại hướng về bàn
thờ, kính cẩn dâng hương, cầu khấn một cách thành tâm.
Rồi mấy ngày đầu năm nhà này qua nhà khác,
mọi người quên hết mọi giận hờn, chấp chiếm, qua lại thăm nhau, dành cho nhau
những lời chúc tụng đậm tình người. Ba ngày tết, cho đến rằm tháng giêng, mùi
hương trầm ngát tỏa khắp lối đường, nẻo xóm.
Tiếng trống, tiếng chuông, từ các Nhà thờ
họ tộc, từ các gia đình làm lễ cúng gia tiên vang lên rộn rã. Nhà nhà mời gọi
nhau bữa tiệc, ly rượu, chén trà, bánh mứt. Mọi người diện những bộ cánh đẹp
nhất, đủ màu, đủ kiểu. Mỗi nhà một lá cờ Tổ quốc treo lên cây nêu trước cửa.
Mấy mảnh ruộng mé làng thành sân chơi, người lớn trẻ con thi nhau đánh đu, chọi gà,
chơi cờ người... Cờ xí phấp phới bay dọc theo những con đường chính...
Ngày mùng bốn, là lễ mừng thọ các cụ già,
đêm thì tổ chức liên hoan văn nghệ gần như đến gà gáy sáng.
Rồi làng trên, thôn dưới thanh thiếu niên
chia đội chơi bóng đá, bóng chuyền.
Tết mỗi kỳ mỗi khác, nó âm thầm thay đổi
theo khả năng kinh tế và nhận thức con người. Cái thay đổi ấy dần dà làm thay
đổi cả cung cách hưởng Tết của con người.
Mươi năm nay, hình như người xa xứ về quê
hưởng Tết ít hơn và thưa dần. Hình như mâm cỗ giao thừa cũng thay đổi theo,
thấy có bia và bánh hộp in bóng loáng. Có nhà còn cúng cỗ bằng rượu Tây nữa.
Một mình miên man suy nghĩ, ấm trà của cụ
Tố đã nhạt.
Tại làm sao mấy người cán bộ có cỡ, dân ăn
nên làm ra, ít khi về hưởng Tết? Trước Tết người ta tranh thủ về thăm hoặc gửi
tiền, quà về cho gia đình, hình như họ coi đó là đã hoàn thành nghĩa vụ!... Rằm
tháng giêng, loáng thoáng có một số tranh thủ về ăn rằm và công việc họ hàng,
nhưng cũng nhiều kẻ làm như chiếu lệ, thoắt ẩn, thoắt hiện. Có những kẻ sống ở
phố thị, cách quê vài ba giờ đi xe cũng thế, như thể học theo nhau vậy. Người
ta cứ lấy lý do xa xôi và bận bịu với công việc(?). “Tết nhất kiểu ấy, không
dẹp luôn đi cho rồi”, cụ thầm trách những con người như thế. Cả năm được ba
ngày Tết, sao con người ta nỡ thờ ơ và chiếu lệ với nó đến lạ lùng!
Cái đám con cái nhà loại ấy, không về thì
thôi, chứ về thì ăn với mặc, chơi với bời thật xa lạ với cái làng thuần nông
này. Thậm chí có đứa đến tuổi trưởng thành rồi, còn cóc biết nhà cạnh bên là
nhà ai, trong gia tộc có những ai nữa! Có kẻ, còn chê bai đủ điều, nằng nặc đòi
đi ngủ khách sạn trên thị trấn cho sạch sẽ.
Hồi trước, khổ là vậy, mà sao xóm làng ngày Tết thật rộn rã, đông
vui? Chắc vì thời ấy người ta ít tính toán thiệt hơn, thiếu vật chất nên người
ta bấu víu vào tinh thần, mà không nơi nào đẹp đẽ và bao dung, ấm cúng bằng
chính nơi họ sinh ra và trưởng thành từ ngày lọt lòng mẹ. Cứ nghiệm lại mà coi,
mỗi lần về thăm quê, nhất là dịp Tết, nếu ai biết thành tâm, ra đi thật quyến
luyến và thấy mình như lớn và khôn hơn một chút.
Vật chất, tiền tài và danh lợi làm người
ta hao tổn đi cái sự linh thiêng ấy chắc? Cụ Tố thở dài, rồi lững thững dạo ra
vườn cho thư thái.
Kể cả đứa cháu đích tôn của cụ, mươi năm
nay nó cũng ít về, nhưng bù lại thì Tết nào cũng cho vợ con về ăn Tết chu tất.
Con dâu người thành phố xứ xa, nhưng thuộc mặt và biết tên hầu hết người trong
họ, cùng làng. Ai cũng khen nhà cụ có phúc, có đứa dâu đẹp người, đẹp nết. Mấy
đứa cháu, mỗi lần về quê, nó cứ tung ta tung tăng suốt ngày như chim được sổ
lồng vậy, đến ngày ra đi cứ quyến luyến nấn ná đến ứa nước mắt. Nhưng cụ tha
thứ được cho thằng cháu vì nó làm cái ngành du lịch. Nó bận bịu vì công việc
chứ không vì lý do nào khác.
Cái du lịch ngày càng ăn nên làm ra, nhất
là dịp lễ Tết. Nhờ nó mà cụ biết được con người ta khi “ấm cật thì rực mỡ”, “no
xôi chán luôn cả chè”!
Ừ nhỉ, cụ thực nhớ ra nhu cầu con người
thời nay có một bộ phận ăn dư uống thừa, ngày nào họ chả ăn uống như Tết. Họ
tìm cách tiêu tiền theo nhiều cách, nhiều kiểu khác nhau: Đi du lịch trong nước
chán thì đi nước ngoài cho hấp dẫn và mới lạ. Mà sao cả năm ngày rộng tháng dài
không lo mà đi, lại nhắm nhè vào ngày Tết. Tết linh thiêng, Tết đoàn tụ, Tết
chia sẻ... mà?
Tết năm ngoái, cả nhà nó về đông đủ, cụ
vừa mừng vừa ngạc nhiên. Cụ có vẻ hờn dỗi: “Năm nay anh cũng về đấy hả?” Thằng
cháu xin lỗi nội vì cái nghề vướng nghiệp vào thân ấy. Rồi nghe cháu kể, ông
thấy thương nó và thương... cho cả thiên hạ nữa!
Nó kể
cụ nghe rằng:
Cứ dịp Noel và Tết dương lịch, nó phải lo
cho khách Tây về nước, rồi lại lo đón họ quay trở lại Việt Nam làm ăn. Đối với họ, nó linh
thiêng và vui như Tết âm lịch của ta vậy. Từ ngày đất nước mở cửa, bà con Việt
kiều về nước nhiều vô kể, ngày càng tăng lên. Đúng là “cáo chết ba năm còn quay
đầu về núi”. Rồi vào Tết ta, lại phải lo cho dân ta đi nước ngoài du lịch. Rồi
thì lo cho dân ta du lịch xứ ta nữa... Cụ nghe đến đấy, thở dài, buột miệng:
“Ra thế à, thật trái khoáy!”. Trong lòng cụ bấy lâu cứ nghĩ, tụi Tây nó ăn chơi
văng mạng lắm cơ đấy, thế ra nó vẫn rất yêu đất nước nó, quý trọng sự sum họp
gia đình nhân ngày linh thiêng đến thế cơ đấy. Phàm là con người, ai cũng phải
hướng về nguồn cội. Thế mà dân mình nhiều người lại đỏng đảnh không phải cách.
Bây giờ, các nước phát hiện ra nhu cầu ấy
của người Việt ta, họ thi nhau giảm giá máy bay, nhà hàng, khách sạn để thu hút
khách. Có người tính rằng, nếu về quê ăn Tết, có khi còn đắt hơn đi chơi mấy
nước lân cận, chưa nói đến chi phí quà cáp, mừng rỡ, lại được ngắm cảnh nước
ngoài... “À, ra thế, nghĩa tình giờ đo đếm cả bằng tiền”, cụ lại thở dài!
Lại nữa, bây giờ mọi thủ tục tết nhất,
ngoại giao, thăm hỏi nhau... đều “xuôi chèo mát mái” từ trong năm rồi, họ đi du
lịch xa nhà mấy ngày Tết, dù trong hay ngoài nước, cho đỡ mất công đi lại thăm
hỏi nhau, “đỡ mất công tiếp khách lai rai mấy ngày Tết, và đỡ cả tiền mừng tiền
rỡ chứ gì”, ông cụ tiếp lời.
Đang miên man suy nghĩ, thấy lòng buồn khó
tả, chợt nhà bên có tiếng ồn ào. Cụ lắng nghe, biết vợ chồng con cái nhà hàng
xóm từ bên Tây về ăn Tết, và hình như có cả người ngoại quốc cùng về nữa.
Tiếng còi xe hơi gọi mở cổng, một chiếc xe
láng coóng đứng chờ. Thằng cháu í ới gọi cụ: “Xe chú Năm về ông ơi”.
Ông Năm công tác ở bộ gì đó về trịnh trọng thưa chuyện với cu: “Con tranh thủ về thăm bố một lúc, con gửi ít quà với tấm lòng thành nhờ bố thắp hương cho Tổ
tiên, chứ tết này cả nhà con phải đi Đà Lạt, bố ạ, đến rằm con ráng về”. Cụ Tố
ngồi trân trân như trời trồng.
Ông
Năm lượn một vòng quanh nhà rồi vào đề nghị cụ Tố chuyển cái này dời cái kia,
nên thế này nên thế khác... Cụ Tố không ừ, không lắc, cũng chẳng gât.
Cụ Tố đứng dậy, tiến về phía bàn thờ gia
tiên, đỏ đèn, thắp hương khấn vái gì đó, rồi cụ nói: “Anh cúng cơm Tổ tông và
mẹ anh những gì thì để lên bàn thờ mà khấn lễ”. Rồi cụ ra ngồi dưới cây vải,
nơi mà nhân lần sinh ra ông Năm, cụ đã trồng, nơi mà ngày Tết, cụ lại kể cho
ông Năm biết tại sao cụ trồng cây vải này.
Tất tật độ tiếng đồng hồ, ông Năm lại chào
bố, ông Năm lại đi, đi về cái nơi mà tuổi năm mươi ông ấy còn rất “bận bịu”.
Tiếng cửa xe đóng lại cái rụp, khiến cụ Tố giật mình.
Cụ Tố nhìn theo cái xe cho đến khi nó
khuất nẻo. Cụ nóng ruột chờ đứa cháu dâu và sắp nhỏ về ăn Tết cùng cụ như mọi
năm.
Mắt cụ Tố bỗng đỏ hoe.
T.C
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét