Bùi Đắc Tuyên dùng kế thu quyền
Lê Thái hậu làm thơ minh oan.
* * *
Nhắc lại vua Quang Trung mất rồi, đình thần bèn phò thái tử Toản mới mười tuổi lên ngôi vua. Quang Toản xưng đế hiệu là Cảnh Thịnh. Vua Cảnh Thịnh tuổi còn nhỏ chỉ nghe lời cậu ruột của mình là quan nội thị Bùi Đắc Tuyên, phong Tuyên làm thái sư đứng đầu bá quan trong triều.
Tuyên mừng rỡ về nhà hỏi Vũ Tâm Can:
- Ta nay được chức thái sư là nhờ ấu quân tấn phong nhưng e lòng người không phục. Vậy nên làm thế nào để khiển chúng được?
Vũ Tâm Can cười đáp:
- Nếu thái sư biết dùng nanh vuốt của mình thì quyền nghiêng thiên hạ đó.
Tuyên lấy làm lạ hỏi:
- Thế nào là biết dùng nanh vuốt?
Can làm ra vẻ bí mật:
- Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân gọi thái sư là chú ruột. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân xưa mang ơn nhà họ Bùi của thái sư. Họ đều là đại tướng anh hùng cả. Nếu thái sư dùng họ làm nanh vuốt củng cố thế lực thì ai dám không nghe.
Tuyên lắc đầu hỏi:
- Diệu, Xuân dù cháu ta nhưng chưa hẳn đã lôi kéo được, làm thế nào sai khiến họ đây?
Vũ Tâm Can hiến kế:
- Thái sư cứ làm như vầy… như vầy… ắt bá quan sợ thế lực của Diệu Xuân mà phải đến chúc mừng thái sư. Ấy là kế cáo mượn oai hùm.
Bùi Đắc Tuyên mừng rỡ khen:
- Thật là diệu kế!
Nói rồi liền theo kế ấy thi hành.
Hôm sau vợ chồng Diệu Xuân nhận được chiếu chỉ của vua Cảnh Thịnh vời đến tư dinh của Bùi Đắc Tuyên. Diệu ngạc nhiên hỏi Xuân:
- Vua gọi ta thì phải gọi vào ngự điện, sao lại gọi đến tư dinh thái sư là cớ gì?
Bùi Thị Xuân đáp:
- Vua còn nhỏ chưa thạo triều nghi. Vả lại thái sư là chú ruột của thiếp có gì mà chàng phải ngại.
Diệu nghe xuôi tai liền theo vợ đến nhà Bùi Đắc Tuyên. Bá quan trông thấy bảo nhau rằng:
- Thái sư là cậu ruột của vua lại là chú ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Bùi Thị Xuân và chồng là quan thiếu phó thượng đạo tướng quân Trần Quang Diệu đang nắm giữ binh quyền lại theo về với Bùi thái sư. Vậy bọn ta nên đến chúc mừng thái sư mới được.
Bàn rồi bá quan văn võ liền đến nhà riêng của Bùi Đắc Tuyên chúc mừng và dâng tặng vật. Khách về cả rồi Vũ Tâm Can tự đắc nói với Bùi Đắc Tuyên rằng:
- Tôi bày kế mọn cáo mượn oai hùm mà trăm quan thảy đều khiếp oai của thái sư. Vậy thái sư ban thưởng cho tôi vật gì đây?
Tuyên mặt dàu dàu đáp:
- Trăm quan đến chúc mừng ta không vui. Có mấy người chưa đến làm ta lo lắm.
Can liền hỏi:
- Mấy người ấy là ai?
Tuyên đáp:
- Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đang trấn thủ Bắc Hà thì chẳng nói làm chi. Còn anh em Võ văn Dũng, Võ Đình Tú, anh em Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong và hai tướng thuỷ binh là Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết không thấy đến. Họ đều là danh tướng cùng Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân nổi danh là Tây Sơn thập hổ. Nay bọn họ không đến tức là không phục, nên ta vẫn lấy làm lo lắm.
Vũ Tâm Can cười nói:
- Ta dùng kế cáo mượn oai hùm để doạ chồn cáo chứ hùm sao doạ được hổ. Nay thái sư hãy làm như vầy… như vầy… tất đưa được bảy tướng ấy ra khỏi kinh thành và gọi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân về làm vây cánh cho mình.
Bùi Đắc Tuyên khen:
- Ấy thật là diệu kế!
Hôm sau đến hạn thiết triều vua Cảnh Thịnh hạ lệnh:
- Tiên đế vừa băng hà e rằng Nguyễn Phúc Ánh nghe tin ấy thừa cơ đem thủy binh ra đánh các trấn dọc theo bờ biển của ta. Vậy nay ta lệnh cho Đặng Văn Long ra trấn thủ Nghệ An. Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết trấn thủ Thanh Hoá. Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong trấn thủ Thuận Hoá. Võ Văn Dũng và Võ Đình Tú ra trấn thủ Bắc Hà thay cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân.
Võ Văn Dũng bước ra thưa:
- Tâu Hoàng thượng, địa hình nước Nam ta các trấn phủ đều nằm dọc theo bờ biển nên chia tướng trấn thủ đề phòng Nguyễn Phúc Ánh đem thuỷ binh ra đánh là rất đúng. Còn riêng Bắc Hà đã có Sở và Lân hùng tài trấn thủ sao lại phải thay anh em thần?
Cảnh Thịnh ấp úng đáp:
- Việc này trẫm không rõ. Thử hỏi thái sư xem.
Bùi Đắc Tuyên xen vào nói:
- Tiên đế băng hà Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở Thăng Long chưa về chịu tang. Vậy tướng quân ra thay để hai tướng ấy về chịu tang tiên đế. Vua đã có lệnh tướng quân lại chẳng tuân sao?
Võ Văn Dũng nghe vậy chẳng biết nói sao đành cùng các tướng nhận lệnh mà đi. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân được triệu hồi kinh. Bá quan trong triều lại bảo nhau rằng:
- Đại tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân trước kia mang ơn nhà họ Bùi của thái sư, cùng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân là anh em kết nghĩa. Nay hai người này được triệu về kinh còn các tướng khác bị đổi đi xa. Vậy quyền thế của thái sư đã lớn lắm rồi. Bọn ta nên về theo thái sư mới là kẻ thức thời.
Từ ấy Bùi Đắc Tuyên làm việc gì cũng mượn danh thiên tử, Cảnh Thịnh còn nhỏ nhất nhất tuân theo, các quan lại a dua theo, Bùi Đắc Tuyên quyền uy tột đỉnh.
* * *
Ngày kia Bùi Đắc Tuyên nghe người thân tín về báo:
- Thưa thái sư, thiên hạ trong thành bàn tán rằng thái sư đầu độc tiên đế.
Tuyên sửng sốt hỏi:
- Bọn họ suy luận thế nào mà dám bảo láo như vậy?
Quân thân tín đáp:
- Họ bảo thái sư đầu độc tiên đế để nương theo ấu quân nên từ chức quan nội thị quèn nhảy lên làm thái sư dễ dàng như Võ Đình Tú nhảy qua nóc nhà vậy.
Tuyên vỗ án quát:
- Bọn này láo! Mau đi tìm xem đứa nào nói bắt chém chết cho ta.
Vũ Tâm Can vội vã can:
- Chém người này thì còn người khác nói, chẳng lẽ đem chém hết hay sao? Tôi có một kế dùng một mũi tên mà trúng hai con nhạn.
Tuyên liền hỏi:
- Kế thế nào?
Can mỉm cười kề tai Tuyên nói nhỏ:
- Thái sư cho người phao tin rằng Thái hậu Lê Ngọc Hân đầu độc tiên đế, rồi đem mẹ con thái hậu ra làm tội. Ấy là đã rửa tiếng nhơ cho mình lại trừ được đối thủ chẳng phải là nhứt cử lưỡng tiện hay sao?
Bùi Đắc Tuyên khen rằng:
- Ấy mới thật là tuyệt diệu kế!
Đến hạn thiết triều, Bùi Đắc Tuyên rước vua Cảnh Thịnh ngự triều rồi sai quân đi mời Thái hậu Lê Ngọc Hân. Lê Thái hậu đến, Tuyên hỏi:
- Mới đây nghe bá tánh trong thành đồn rằng tiên đế vì dứt nhà Lê đuổi Lê Chiêu Thống chạy sang Mãn Thanh rồi lên ngôi Hoàng Đế, nên Thái hậu là công chúa nhà Lê mới oán hận đầu độc vua để trả thù. Tôi trộm nghĩ không có lửa làm sao có khói nên vời thái hậu đến hỏi cho ra lẽ.
Lê thái hậu sửng sốt, nghẹn lời không nói được. Phan Văn Lân nổi nóng xen vào hỏi:
- Việc quy tội phải có tang chứng, sao lại tin vào lời đồn mà kết án người ta?
Bùi Đắc Tuyên quay lại bảo quân:
- Mau vời nhân chứng vào đây.
Quân đưa một người đến dưới bệ. Tuyên vỗ án hỏi:
- Tên kia! Ngươi quan hệ thế nào với thái hậu? Mau khai ra.
Tên ấy đáp:
- Thần tên Hồ Bật là người nấu bếp của tiên đế. Thái Hậu bảo đầu độc tiên đế, thần lỡ dại nghe lời. Xin bệ hạ giáng tội.
Bùi Đắc Tuyên quay sang hỏi Lê thái hậu:
- Thái hậu còn chối cãi nữa chăng?
Lê thái hậu khóc ngất rằng:
- Nghẹn ngào không thốt lên câu. Xin cho giấy bút viết lời tường thuật.
Tuyên mừng rỡ bảo:
- Quân mau đem giấy bút cho thái hậu viết lời thú tội.
Quân đem giấy bút đến. Lê thái hậu vừa khóc vừa viết liền một mạch xong bài tường thuật. Bùi Đắc Tuyên cầm lấy bảo Trần Văn Kỷ:
- Quan trung thư lệnh văn hay chữ tốt hãy đọc cho mọi người cùng nghe thái hậu nhận tội thế nào.
Trần Văn Kỷ đón lấy đọc, Thơ rằng:
“ Gió hắt hiu phòng tiêu lạnh lẽo
Trước thềm lan hoa héo don don
Cầu tiên khói toả đỉnh non
Xe rồng thăm thẳm bóng loan dàu dàu!
Nỗi niềm đau dễ hầu than thở
Trách nhân duyên lỡ vỡ cớ sao?
Sầu sầu thảm thảm xiết bao
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!
Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương
Se duyên vâng mệnh phụ hoàng
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu qui
Trăm ngàn dặm quản chi non nước
Chữ nghi gia mừng được phải duyên
Sang yêu muôn đội ơn trên
Rỡ ràng vẻ thuý, nỗi chen tiếng cầm!
Lượng che chở vụng lầm nào kể
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời
Dẫu rằng biển đổi non dời
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội
Khắp tôn thân cũng đội ơn sang
Miếu đường Lê vẫn tế thường
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh
Nhờ hồng phúc đôi cành hoè quế
Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi
Non Nam lấn chúc tuổi trời
Dâng câu đại thọ, ngỏ lời an khang
Những ao ước trập trùng tuổi hạt
Nguyện trăm năm ngõ được vầy vui
Nào hay sông cạn biển vùi
Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly!
Đọc đến đây Trần Văn Kỷ lệ tuôn lã chã đặt giấy lên án nói:
- Tôi nghẹn lời không đọc được nữa. Xin người khác đọc thay cho.
Các quan đều ứa nước mắt nói:
- Thương thay cho thái hậu!
Bùi Thị Xuân gạt lệ nói:
- Trần tiên sinh là văn sĩ nên lòng mềm yếu. Tôi xin đọc thay.
Đoạn Xuân đọc tiếp rằng:
“Từ nắng Hạ, mưa Thu trái tiết
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên …
Thị Xuân vùng khóc lớn kêu lớn:
- Tiên đế ơi! Tiên đế! Người định đến cuối Hạ sang Thu sẽ đem quân đánh Phúc Ánh thì đến lúc ấy người đã ra người thiên cổ! Ôi! Nắng hạ mưa thu trái tiết! Tiên đế ơi! Tiên đế!
Các quan nghe Thị Xuân nói thế cũng sụt sùi ngấn lệ. Bùi Thị Xuân cắn răng đọc tiếp:
- Từ nắng Hạ, mưa Thu trái tiết
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên
Xiết bao kinh sợ lo phiền
Miếu thần đã đảo thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn thầy hay tìm rước
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay mày tạo bất bằng
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
Cuốc tụ tán bi hoan kíp bấy
Kể xum vầy đã mấy năm nay
Lênh đênh chút phận bèo mây
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu?
Trằn trọc luống đêm thâu ngày tới
Biết cậy ai giập nỗi bi thương?
Trông mong luống những mơ màng
Mơ hồ như mộng bàng hoàng như say.
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng
Ngỡ hương trời lảng vãng còn đâu
Vội vàng sửa áo lên chầu
Thương ôi quạnh quẽ trước lầu nhện giăng!
Đọc đến đây Xuân lấy vạt áo lau nước mắt rồi đọc tiếp:
- Khi bóng trăng lá in lấp lánh
Ngỡ tàn vàng ngắm cảnh ngự chơi
Vội vàng dạo bước tới nơi
Thương ôi vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
Nhớ hình dáng xót xa đòi đoạn
Mặt rồng sao cách biệt lâu nay
Có ai chốn ấy về đây?
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành!
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả
Nghĩ đôi phen nồng nã đôi phen
Kiếp này chưa trọn chữ duyên
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương!
Đọc đến đây Xuân ôm mặt oà lên khóc. Các quan cùng gạt lệ nhìn nhau bảo:
- Lòng Thái hậu thương tiên đế đến thế, lẽ nào bày việc hại vua!
Phan Văn Lân thấy Thị Xuân khóc không đọc được bèn bước đến nói:
- Chị vừa bảo Trần tiên sinh là văn sĩ mềm yếu, còn chị tuy là võ tướng cũng bụng đàn bà. Thôi, đưa đây tôi đọc cho mọi người rõ lòng Thái hậu.
Nói xong Lân liền cầm bài thơ lên đọc tiếp rằng:
Nghe trước có đấng vương Thang Võ
Đức càng sâu tuổi thọ càng cao
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!
Mới đọc được bốn câu, Lân vùng khóc rống lên rằng:
- Tiên đế ơi! Tiên đế!
Vua Cảnh Thịnh cũng khóc theo:
- Phụ hoàng ơi! Phụ hoàng!
Ngô Văn Sở thấy thế hỏi Văn Lân:
- Phan đệ chê chị Xuân bụng đàn bà sao vừa đọc bốn câu đã khóc rống lên vậy?
Văn Lân tức tửi:
- Trước Trần tiên sinh và chị Xuân đọc cảnh nhớ nhung, mây, nước, gió, trăng thì tôi không khóc. Nhưng bốn câu tôi vừa đọc làm tôi nhớ đến công lao dựng nghiệp của tiên đế mà khóc đấy thôi.
Nói rồi Văn Lân bậm môi, nghiến răng đọc tiếp:
Nghe rành rành trước vua Nghiêu Thuấn
Công đức dày ngự vận càng lâu
Mà nay lượng cả ơn sâu
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần!
Công thế ấy mà nhân dường ấy
Tuổi thọ sao hẹp bấy hóa công?
Nếu cho chuộc được tuổi rồng
Đổi thân này cũng thỏa lòng riêng tôi!
Đến đây Văn Lân lại khóc rống lên rằng:
- Tiên đế ơi! Tiên đế!
Ngô Văn Sở thấy vậy nói:
- Phan đệ tánh hay mủi lòng, đưa đây tôi đọc cho.
Ngô Văn Sở cầm lên đọc một mạch:
Buồn thay nhẽ! Sương rơi gió lọt
Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa
Tưởng lời di chúc thiết tha
Khóc nào lên tiếng, thức mà cũng mê.
Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa ở
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong
Quyết liều mong vẹn chữ tòng
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e!
Con trứng nước thương vì đôi chút
Chữ thâm tình chưa thoát được đi
Vậy nên nấn ná đôi khi
Hình tuy còn ở phách thì đã theo!
Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo
Theo buổi sau ngự nẻo Sông Ngân
Theo xa thôi lại theo gần
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao!
Mơ màng thêm nỗi khát khao
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi?
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ
Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai?
Xưa sao sớm hỏi khuya bày
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ!
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ
Tình cô đơn ai kẻ xót đâu
Xưa sao gang tấc gần chầu
Trước sân phong nguyệt trên lầu sinh ca!
Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi
Tin hàng huyên khôn hỏi thăm nhanh
Nửa cung gãy phím cầm lành
Nỗi con côi cút nỗi mình bơ vơ!
Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đôi lúc
Tiếng quốc kêu thêm giục lòng thương
Não người thay cảnh tiên hương
Dạ thương quanh quất, mắt thường ngóng trông!
Trông mái Đông cánh buồm xuôi ngược
Thấy mênh mông những nước cùng mây
Trông Đông rồi lại trông Tây
Thấy non cao ngất thấy cây rườm rà!
Trông Nam thấy nhạn sa lác đác
Trông Bắc thì ngàn bạc màu sương
Nọ trông trời đất bốn phương
Cõi tiên thăm thẳm biết đường nào đi?
Cậy ai có phép gì tới đó
Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung
Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung bao ngày!
Duyên hảo hợp xót rày đã lẽ
Bụng ai hoài vội rẽ vì đâu?
Xin đưa gương ấy về chầu
Ngỏ soi cho tỏ gót đầu trông ơn
Tưởng linh sàng nhơn nhơn còn dấu
Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
Tân quân còn tuổi ấu xung
Tiên vương sao nỡ quên lòng đoái thương?
Gót con nhỏ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao mình mặt áo gai
U- ơ ra trước hương đài
Tưởng quang cảnh ấy chua cay dường nào!
Trong sáu viện ố đào ủ liễu
Xác ve gầy lỏng lẻo xiêm nghê
Long đong xa cach hương quê
Mong theo lầm lối, mong về tủi duyên!
Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ
Cất chân tay thương khó xiết chi
Hang sâu vẳng tiếng thương bi
Kẻ sơ còn thế huống gì người thân!?
Cảnh biệt ly nhiều phần bát ngát
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi?
Càng trông càng một xa vời
Tất lòng thảm thiết chín trời biết chăng?
Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn
Cánh hải đường đã quyện giọt sương
Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, Phượng Hoàng lẻ đôi!
Cảnh nào cũng bùi ngùi cảnh ấy
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu?
Phút giây bãi bể nương dâu
Cuộc đời là thế nài hầu được sao?
Chữ tình nghĩa trời cao đất rộng
Nỗi đoạn trường càng sống càng đau
Mấy lời tâm sự trước sau
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho!”
Ngô Văn Sở đọc xong rồi, Bùi Đắc Tuyên bảo:
- Từ lâu nghe Thái hậu nổi danh cầm kỳ thi hoạ, xuất khẩu thành chương, nay tận mắt trông thấy thật quả không ngoa. Nhưng trong bài thơ ấy không nói đến việc hại vua là ý thế nào? Muốn chạy tội chăng?
Lê Thái hậu chỉ khóc mà không đáp. Phan Văn Lân thôi khóc, ngửa mặt lên trời cười lớn mấy hồi. Tuyên giận lắm quát hỏi Lân:
- Phan Văn Lân! Ngươi cười gì mãi thế?
Lân nghiêm mặt đáp:
- Tôi cười thái sư ít học nên không thấy được lời thuật việc hại tiên đế trong bài thơ của Thái hậu.
Tuyên cố nén giận hỏi:
- Ngươi bảo lời thuật chỗ nào, phải nói cho thông bằng không phải chém.
Văn Lân ung dung đáp:
- Thái sư hãy nhìn mọi người ở đây xem. Nghe bài thơ này ai nấy đều khóc lóc nhớ thương tiên đế. Nếu Thái hậu hại vua sao trong phút chốc có thể viết lên bài thơ ai oán đó? Ấy chẳng phải là lời tự bạch cho nỗi oan của mình đó ư?
Văn Lân vừa dứt lời trăm quan đồng thanh nói:
- Lời quan Nội hầu rất phải. Xin thái sư xét lại kẻo oan cho Thái hậu.
Tuyên liệu bắt tội Lê Thái hậu không được bèn bước lại gần Hồ Bật bảo:
- Thái hậu vô tội, vậy là ngươi vu oan cho Thái hậu.
Nói xong Tuyên rút gươm đâm Hồ Bật một nhác chết tươi. Thấy vậy Phan Văn Lân nói:
- Đáng lý nên giữ Hồ Bật hỏi cho ra lẽ ai đã bày mưu hại Thái hậu. Sao Thái sư lại giết hắn đi? Ngộ nhỡ có kẻ nói gièm rằng Thái sư giết người diệt khẩu thì sao?
Tuyên vỗ án quát:
- Phan Văn Lân to gan dám đổ tội cho ta.Võ sĩ đâu lôi ra chém tức thì.
Võ sĩ xông vào trói Văn Lân toan lôi đi. Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở cùng quỳ xin tội. Quang Diệu thưa:
- Văn Lân vì xót thương Thái hậu nói lỡ lời, xin Thái sư tha mạng. Vả lại, Văn Lân xưa cùng tiên đế kết nghĩa đệ huynh là một bậc khai quốc công thần, có công một mình chận giặc Mãn Thanh trên sông Như Nguyệt. Xin Thái sư nghĩ tình ấy mà tha cho Văn Lân một phen.
Bá quan cũng đều quỳ xin tha cho Văn Lân. Bùi Đắc Tuyên bảo:
- Nể lời trăm quan tha cho ngươi một lần. Lần sau tái phạm giết chết không tha.
Nói xong Tuyên dắt vua Cảnh Thịnh về cung. Ra ngoài Phan Văn Lân bàn với Ngô Văn Sở:
- Tôi e Thái sư lập kế hại Thái hậu. Kế không thành mới giết người diệt khẩu. Việc này không làm cho ra lẽ thật là tức chết.
Ngô Văn Sở bác đi, bảo:
- Đằng nào Thái hậu cũng đã được minh oan. Vả lại cũng không chắc người chủ mưu là Thái sư. Hơn nữa, xưa anh em ta tá túc trong nhà họ Bùi thì Thái sư kể như là người ơn của ta, cũng không nên truy cứu làm gì.
Nghe Sở nói xong, Văn Lân lẳng lặng ra về.
* * *
Bùi Đắc Tuyên về nhà nói với Vũ Tâm Can:
- Nếu không có Phan Văn Lân ta đã làm tội được Lê Thái hậu rồi, thật là tức chết! Xưa nó ở nhờ trong nhà ta nay lại phản ta. Phải làm sao trừ Văn Lân mới được.
Vũ Tâm Can bàn rằng:
- Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân là anh em kết nghĩa từ lúc còn để chỏm theo Đô thống Ngô Mãnh bỏ Phú Xuân lánh nạn vào Quy Nhơn. Phan Văn Lân nóng nảy bộc trực, Ngô Văn Sở điềm đạm, trầm tĩnh biết tính thiệt hơn. Nay Thái sư có người con gái là Xuân Hoa nên đem gả cho Ngô Văn Sở . Phan Văn Lân tất sẽ phải bỏ quan ở ẩn, hoặc sẽ nông nổi làm càn. Khi ấy Thái sư bắt tội giết đi là trừ được họa.
Tuyên trầm ngâm bảo:
- Kế này hay đối với Phan văn Lân. Nhưng ta chỉ e Ngô Văn Sở không bằng lòng.
Vũ Tâm Can nói, giọng tự tin:
- Ngô Văn Sở đọc một mạch hết bài thơ của Thái hậu mà không hề rơi nước mắt. Chứng tỏ Sở tình ít mà trí thì nhiều. Người không bị tình cảm lung lạc, tất sẽ sáng suốt mà theo về với ta.
Tuyên nghe lời liền gọi Ngô Văn Sở đến hỏi:
- Ngô tướng quân đã lập gia thất chưa?
Sở cười lã giả đáp:
- Hạ tướng từ nhỏ theo tiên đế chinh chiến triền miên nên chưa thành gia thất.
Tuyên thân mật bảo:
- Xưa tướng quân và ông nội là Đô thống Ngô Mãnh gặp nạn ở Phú Xuân vào nhà ta tá túc. Ta vốn xem tướng quân như người nhà, nay có con gái tên là Bùi Xuân Hoa muốn gả cho tướng quân. Chẳng hay ý tướng quân thế nào?
Ngô Văn Sở bái tạ thưa:
- Thái sư đã ban ơn, hạ tướng nào dám không vâng.
Tuyên mừng rỡ đỡ Văn Sở dậy nói:
- Vậy ta định ngày làm lễ cưới mời trăm quan dự tiệc linh đình cho thiên hạ biết con rể ta là một danh tướng trong Tây Sơn thập hổ.
Nói xong cả hai cùng tay bắt mặt mừng.
* * *
Nhắc lại Phan Văn Lân nhận được thiệp mời hôn lễ của Ngô Văn Sở và Bùi Xuân Hoa. Xem xong , Lân vào Bắc cung gặp Lê Thái hậu. Lân quỳ thưa:
- Thần nay phải bỏ quan về ở ẩn. Xin Thái hậu ở lại bảo trọng.
Lê Thái hậu ngạc nhiên hỏi:
- Tướng quân là bề tôi ỷ trọng của triều đình, sao bỗng dưng lại từ quan?
Lân lắc đầu thất vọng:
- Ngô Văn Sở đã theo làm rể của Bùi Đắc Tuyên, vậy Văn Lân không còn đất dung thân nên thần phải ra đi.
Lê Thái hậu trầm ngâm nói:
- Tôi có một kỷ vật của tiên đế muốn ký thác cho tướng quân giữ giùm. Chẳng hay tướng quân có vui lòng chăng?
Lân khóc lạy thưa:
- Vật gì của tiên đế xin Thái hậu cứ giao cho thần. Lân thần có thể mất đầu và không mất vật.
Lê Thái hậu cả mừng liền vào trong ẳm một hài nhi ra.Thái hậu ứa nước mắt nói:
- Đây là Hoàng tử Quang Thiệu, vừa tròn mười hai tháng, xin ký thác tướng quân!
Văn Lân vụt đứng lên đỡ lấy đứa bé và thất kinh hỏi:
- Vì sao Thái hậu lại giao Hoàng tử cho thần. Triều đình có biến chăng?
Lê Thái hậu lệ tuôn lã chã đáp:
- Lúc tiên đế còn tại thế định việc bình đất Gia Định, đòi đất Lưỡng Quảng vạn sự đã cụ bị mới vời La Sơn Phu tử đến hỏi ý. Phu tử bảo không có điều bình Nam, Bắc tiến và khuyên vua nên giữ gìn hậu duệ của mình. Lúc ấy tôi không tin, nay tiên đế băng hà mới hay là thực. Đã đúng điều trước ắt nhằm điều sau, nên ta mới tìm người trung nghĩa gởi gắm Hoàng tử. Nay xét thấy chỉ có tướng quân là đáng tin cậy mà thôi.
Phan Văn Lân trầm ngâm hỏi:
- Nếu vậy thần xin vâng, nhưng làm sao đem được Hoàng tử ra khỏi cung cấm mà không bị nghi ngờ?
Lê Thái hậu gạt nước mắt đáp:
- Tướng quân vóc dáng thư sinh vậy hãy vờ giả làm nhi nữ ẵm theo một trẻ trạc tuổi như Hoàng tử nói giả rằng người trong Hoàng tộc nhà Lê ở Thăng Long vào thăm Thái hậu. Vaò rồi ta đánh tráo hai trẻ, vậy khi đem Hoàng tử ra khỏi hoàng cung tất chẳng ai nghi ngờ.
Văn Lân sốt sắng nói:
- Vậy thần xin theo kế ấy lập tức thi hành!
Từ ấy về sau không ai biết Phan Văn Lân bỏ đi đâu và cũng không ai biết rằng Hoàng tử Quang Thiệu đang sống cùng Thái hậu là Hoàng tử giả!
Nghe tin Phan Văn Lân bỏ quan đi biệt tích, Vũ Tâm Can tự đắc nói với Bùi Đắc Tuyên rằng:
- Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân là cháu ruột của thái sư nên dưới mắt thiên hạ cặp vợ chồng danh tướng này đã là vây cánh của thái sư rồi. Giờ đến lượt Đại tư mã Ngô Văn Sở là con rễ của thái sư, đến nỗi Phan Văn Lân sợ mà bỏ trốn hỏi còn ai dám chống lại thái sư nữa?
Bùi Đắc Tuyên hớn hở bảo:
- Ấy là nhờ kế cáo mượn oai hùm của ngươi đó. Để đền ơn, ta tiến cử ngươi lên vua làm quan nội thị thế chỗ ta ngày trước. Ý ngươi thế nào?
Vũ Tâm Can quỳ lạy tạ ơn.
(Hết chương 59)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét