ẢO ẢNH - Truyện ngắn Nguyễn Đoan Tuyết
Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2017
Nguyễn Đoan Tuyết
Chiều đã muộn. Những tia nắng cuối cùng còn sót lại, nhuộm ráng vàng rực rỡ trên nền trời đầy mây trắng, cùng với gió cuốn ở trên cao đã tạo nên những hình thù kì lạ khêu gợi trí tưởng tượng của con người: khi thì giống như tòa lâu đài mĩ lệ, nguy nga cứ đùn cạo, đùn cao mãi lên; khi thì như một dòng sông mây lững lờ trôi về nơi vô định và còn nhiều những hình vẻ khác nữa không biết gọi tên… Thế nhưng chỉ trong thoáng chốc, tất cả những hình ảnh đẹp đẽ ấy đã từ từ tan dần ra, tan đi mất để chỉ còn lại sự nuối tiếc về những ảo ảnh xa mờ.
Không hiểu sao cứ mỗi lần ngắm nhìn cảnh sắc này là tôi liên tưởng đến một người bạn nơi xa xôi, đang sống vật vờ bên cạnh cuộc đời, phủ nhận thực tại để chỉ sống bằng hoài niệm về quá khứ. Ngược dòng thời gian, hồi ức đã đưa tôi về những tháng ngày của hơn ba mươi lăm năm trước…
Hồi ấy, tôi và A.Đ- tên cô bạn gái rất dễ thương của tôi, cùng học lớp Việt Hán ở Đại học Vạn Hạnh. Chúng tôi thân nhau vì hợp nhau, có nhiều điểm chung giống nhau, ngoại trừ một điểm: tôi thì ưa giao lưu với nhiều bạn bè còn A.Đ thì ngược lại- và điều này không hẳn do cá tính mà vì một nguyên nhân đặc biệt (mà tôi sẽ xin được kể sau). A.Đ là một cô gái Sài Gòn chính hiệu được sinh ra trong một gia đình trung lưu nhưng dáng dấp, phong cách giống như một tiểu thư. A.Đ sở hữu một dáng người thon nhỏ với nước da trắng trẻo, đạt cả “nhất dáng nhì da”- một khuôn mặt thanh tú với đôi mắt lá răm đa cảm, mơ mộng. Với vẻ đẹp trời cho lại biết chăm chút cộng với cách ăn nói nhỏ nhẹ, khiêm nhường nên A.Đ có rất nhiều “vệ tinh” từ trong lớp đến ngoài lớp.
Một trong những điểm chung của chúng tôi là cả hai đều không muốn vùi đầu vào sách vở mà học theo ngẫu hứng, cũng không muốn tranh thứ hạng gì - vả lại cũng không tranh nổi với những nhà sư rất giỏi chữ Hán ở trong lớp. Do đó, khi trống giờ hoặc không thích học giờ nào là chúng tôi rủ nhau xuống phòng âm nhạc của trường để xem các anh chị khoa này thực hành biểu diễn. Có khi chúng tôi còn đề nghị họ đàn cho nghe những bản ưa thích, tôi thì nhạc Trịnh hoặc Đồng xanh (Greenfields) vì những giai điệu và ca từ bay bổng lãng mạn đã cuốn hút tôi “Đồng xanh là chốn đây thiên đường cỏ cây, là nơi bầy thú hoang đang vui đùa trong nắng say… và những đôi nhân tình đang thả hồn dưới mây chiều…” đủ biết là tôi thuộc tuýp người nào. Ấy vậy mà A.Đ lúc nào cũng nghe đi nghe lại chỉ một bản Ảo ảnh mà không hề biết chán, nghe mãi tôi cũng phải thuộc lòng “Những neo thuyền yêu đương thường dễ đứt, khiến bao chiều trên bến tịch liêu, vắng con tàu sân ga thường héo hắt, thiếu anh lòng em thấy quạnh hiu...”. Lúc đó tôi không thể không hỏi A.Đ vì sao Ảo ảnh trở thành bản “ruột"- phải nói là bản “tim” của A.Đ mới đúng?! Thế là tôi đã được hiểu về câu chuyện tình của A.Đ.
Hồi ấy, A.Đ là cô nữ sinh yêu kiều của trường Nữ trung học Gia Long, một trường danh giá ở Sài Gòn thời bấy giờ. Trong một lần dự sinh nhật một cô bạn, A.Đ đã quen với M rồi họ yêu nhau. Một tình yêu đẹp với những kỉ niệm ngọt ngào tưởng như chỉ đong đầy hạnh phúc nếu như không gặp phải sự ngăn cản quyết liệt từ phía gia đình của anh M- người yêu A.Đ. Gia đình M thuộc tầng lớp thượng lưu, bố là một quan chức cao cấp, mẹ thuộc dòng dõi hoàng tộc ở Huế, nhà ở là một biệt thự bề thế kín cổng cao tường chứ không phải trong một con hẻm như nhà của A.Đ. Như vậy, tình yêu giữa họ đã có một bức tường ngăn cách của địa vị, tầng lớp xã hội (một trở ngại hình như đã có từ thời xa xưa lắm rồi). Vượt qua sự ngăn cản của gia đình, họ đã hẹn ước với nhau, anh M dặn A.Đ hãy ráng chờ anh ấy học xong họ sẽ tính chuyện. Khi M sang Mĩ du học sớm hơn do sự sắp đặt của mẹ nhằm để chia cắt hai người thì cũng từ đó A.Đ bắt đầu sống khép mình trong sự đợi chờ đằng đẵng cho đến hết thời con gái.
Bây giờ nghĩ lại tôi chưa từng thấy một người con gái nào mà chờ đợi kiên trung và hết lòng hết dạ đến thế! A.Đ hạn chế những cuộc gặp mặt vui chơi cùng bạn bè để dành thời gian mà… nghĩ về người ấy, đặc biệt là tránh tiếp xúc riêng lẻ với bạn khác phái với bất cứ lí do gì vì A.Đ tin rằng gia đình người yêu đang nghi ngờ, theo dõi để đánh giá về đức hạnh, về sự đoan chính của mình. Nếu không có tôi thì thế nào Ạ.Đ cũng tìm một bạn nữ khác để đi cùng nếu đứng ở hành lang hay vào căng tin của trường vì có một vài bạn nam hay tìm cách gặp A.Đ để tán chuyện. A.Đ đã phải hi sinh những thú vui của tuổi trẻ để không xảy ra điều tai tiếng gì để giữ gìn cho sự đoan chính ấy.
Có lần, phân khoa Giáo dục, ban Việt Hán của chúng tôi tổ chức đêm liên hoan văn nghệ và lớp chúng tôi được các anh chị lớp trên phân về một chị đạo diễn giúp cho nhạc cảnh “Lưu Nguyễn nhập thiên thai” dựa vào bài thơ Tống biệt của Tản Đà. Lớp đã chọn ra hai anh điển trai nhất để làm Lưu - Nguyễn và một bầy đến sáu “nàng tiên”. Dĩ nhiên A.Đ được chọn là một trong số các “nàng tiên” ấy nhưng A.Đ khẩn khoản chối từ vì đêm diễn sẽ phải rất khuya cho dù các bạn nam sẵn sàng hộ tống về tận nhà. Thế là bí quá chị đạo diễn đành nhắm vào tôi để thế thân nhưng khi tập dượt tôi không biết nhảy điệu valse (chao ôi! tiên nữ ngày xưa mà chị ấy cho vừa múa hát vừa nhảy valse lả lướt để diễn tả niềm hân hoan trong cuộc hạnh ngộ với hai chàng trai đến từ trần thế) cho nên cuối cùng phải đưa một cô bạn người hơi thấp nhưng lại nhảy rất đẹp vào thay tôi lần nữa để bảo đảm cho kịp thời hạn. Ở giữa Sài Gòn vào thế kỉ 20 mà A.Đ phải sống gần giống như một tiểu thư "khuê môn bất xuất” của thời xưa để giữ vẹn tiết hạnh theo suy nghĩ của cô ấy!
Lúc này A.Đ vẫn gắng gượng làm vui vì những cánh thư cứ thưa dần, thưa dần… rồi mất hẳn nhưng A.Đ vẫn chưa từ bỏ hi vọng, vẫn còn tin vào tình yêu của M- vì họ đã từng yêu nhau đến thế kia mà! Có lúc A.Đ lại bảo có lẽ M đang muốn thử thách mình đấy thôi- mà đã qua thử thách thì tình yêu càng bền vững, càng đẹp hơn bao giờ hết. Nói thì nói vậy nhưng nhìn sâu vào mắt A.Đ không thể giấu được vẻ buồn u ẩn. Và cũng không biết từ lúc nào bạn đã nhập tâm bài hát Ảo ảnh như trên đã nói. Dần dần, mỗi ngày một ít, nội dung của bài hát đã vận vào cuộc đời A.Đ làm cho A.Đ chỉ còn biết sống với những hoài niệm, và cả một trời nhớ thương khắc khoải.
Tôi nhớ có một lần hai chúng tôi đang đứng trên hành lang của lớp ở tầng 4 nhìn xuống các hàng quán dưới cổng trường thì thấy nhà thơ Bùi Giáng đang ôm một mớ bã mía trước ngực không hiểu để làm gì và đi đâu trong khi mái tóc quăn của thi sĩ nhà ta buông xõa ngang lưng như đàn bà con gái. Đâu đó vang lên một vài tiếng cười khúc khích và bình phẩm về hiện tượng bất thường này nhưng A.Đ lại bảo:
- Mình ước gì được như ông ấy...
- Tại sao vậy? Chẳng lẽ A.Đ muốn trở thành một người lập dị, một nhà thơ gàn gàn điên điên như mọi người đã nói?
- Bởi vì nếu được như ông ta chắc mình sẽ không còn biết buồn, biết khổ nữa.
Tôi ngạc nhiên nhìn A.Đ với nỗi thương cảm không nói thành lời. Hình như ý nghĩ về người ấy vẫn thường trực trong A.Đ choán hết tâm trí của bạn tôi mất rồi! Thật tội nghiệp cho A.Đ khi đã lỡ yêu thương sâu nặng một người- theo cách nói bây giờ đó là một "hot boy” - thuộc con nhà quyền thế, phong độ hào hoa, học giỏi lại có nhiều tài lẻ. Vì thế mà A.Đ đóng cửa trái tim mình mặc cho xung quanh lúc nào cũng có người theo đuổi. Trong số ấy, tôi ấn tượng nhất là Q - một anh chàng trông cũng rất chững chạc, kém A.Đ đến 3 tuổi nhưng đã theo đuổi A.Đ bằng một tình yêu trung thành hiếm có và hoàn toàn vô điều kiện- người mà sau này A. Đ đã lấy làm chồng nhưng không có tình yêu.
Cô bạn tôi cứ sống héo hon trong sự đợi chờ với niềm hi vọng mong manh như thế. Vào một ngày trong những ngày cuối cùng của “sự kiện 30 - 4”, A.Đ gọi tôi đến nhà gặp ba mẹ cô ấy và họ thật lòng muốn cưu mang giúp đỡ tôi cho đến khi tôi liên lạc được với gia đình ở Pleiku. A.Đ nói nếu có điều kiện sẽ ra đi dù góc biển chân trời nào để tìm gặp người yêu. A.Đ tặng tôi chiếc máy cát-sét nhưng tôi đã từ chối vì đó là phương tiện cần có để cô ấy giải khuây. A.Đ bảo nếu phải từ bỏ tất cả để ra đi thì vật bất li thân của cô chỉ là những kỉ vật của người ấy mà thôi!
Sau 30-4, tôi về Pleiku. Hoàn cảnh gia đình không cho phép tôi vô lại Sài Gòn để học tiếp như A.Đ nhưng chúng tôi vẫn liên lạc nhau qua những cánh thư sau một vài năm nữa. Mãi đến năm 1987, tôi mới có dịp vào Sài Gòn để tìm lại con hẻm ngày xưa thì rất may đã gặp được A.Đ đang trong thời gian chờ phỏng vấn để đi nước ngoài. Tôi khuyên A.Đ nên quên anh M đi thì hơn vì đã chờ đợi hơn 12 năm rồi còn gì mà tuổi xuân thì có bao giờ trở lại. Hơn nữa, không nên để ba mẹ phải lo buồn. A.Đ vẫn một mực để tìm gặp người ấy rồi mới tính được vì A.Đ vẫn tin là anh M chưa thể quên lời hẹn năm xưa. Đó là lần gặp gỡ cuối cùng giữa tôi và A.Đ.
Đến năm 2001, tôi lại vào Sài Gòn để thăm con gái đi học đại học ở đây và hai mẹ con đã mất gần cả buổi chiều để lần ra nhà A.Đ ở con hẻm năm nào (bây giờ tên đường và số nhà đã đổi khác). Với giọng kể chậm rãi trầm buồn, chị gái của A.Đ, người còn ở lại căn nhà này cho biết A.Đ đã theo gia đình định cư ở nước ngoài. Người chị không nói rõ A.Đ có tìm gặp được M hay không (tôi cũng không tiện hỏi) mà chỉ cho biết sau đó A.Đ đã lấy Q – người đã theo đuổi kiên trì nhiều năm và yêu thương A.Đ hết lòng, họ không sinh con được và Q làm “nail” để lo cho cuộc sống của hai người. Điều làm cho tôi suy nghĩ nhiều nhất là không biết nói gì gởi gắm qua bà chị để an ủi bạn tôi khi mà cô ấy đã lại sống khép kín như một nữ tu, tránh tiếp xúc với mọi người. Sự thất vọng và đổ vỡ niềm tin trong tình yêu đã làm bạn tôi rơi vào trạng thái trầm uất không biết đến bao giờ mới thoát ra được. Và tôi cũng thực sự cảm thương cho Q đã sống hết mình cho tình yêu. Một người có cái tâm tốt như A.Đ hẳn là phải hàm ơn và rất quí trọng Q, nhưng liệu họ có tìm thấy hạnh phúc?! (vì đâu phải cứ hai người tốt gặp nhau là phải hợp nhau). Ôi đúng là những bi kịch lẩn quẩn của cuộc đời.
Qua câu chuyện này, không hiểu các bạn nữ sẽ nghĩ gì khi quyết định trao cả trái tim, niềm tin và cuộc đời mình cho một người, đúng hơn là cho một lời hẹn ước? Phải chăng tình yêu của mỗi người luôn phải qua thử thách nghiệt ngã, trong đó có sự xa mặt cách lòng? Phải chăng anh M chưa yêu A.Đ đến mức vượt qua mọi trở ngại để giữ đúng lời ước hẹn?
Nếu biết rằng có một người vì yêu mình mà chờ đợi mòn mỏi đến hết thời xuân sắc rồi sống trong sự trầm cảm cả quãng đời còn lại thì liệu người ấy có thể an vui, thanh thản mà hưởng hạnh phúc với ai đó hay không?
Ngoài kia, nền trời đã chuyển dần sang màu sẫm tối. Những áng mây đủ các hình sắc rực rỡ đã tan biến từ lâu để nhường chỗ cho màn đêm buông xuống. Cô bạn tôi đã từng xây lâu đài hạnh phúc với người tình lí tưởng của mình để rồi tất cả đã tan đi như những bóng mây kia- “Dòng mực xanh còn đấy, hứa cho nhiều dù bao lời nói, đã phai tàn thành mây thành khói cũng xem như không mà thôi…” có phải như thế không, A.Đ ơi!?
Tháng 1- 2011
N.Đ.T
Tags:
Nguyễn Đoan Tuyết,
TRUYỆN NGẮN,
Văn
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét