Thi sĩ Trần Đới
Thi sĩ Trần Đới, tác giả tập thơ Tảo mộ lênh đênh
xuất bản ở Sài Gòn 1973, về sau là tu sĩ Thích Thông Bác, đồng tác giả hàng
chục tập sưu tầm về cuộc đời và tác phẩm của thi sĩ Bùi Giáng. Ông vừa viên tịch ngày 8-5-2014 tại
thiền viện Trúc Lâm Tuệ Đức tỉnh Vĩnh Phúc. Hương Quê Nhà xin giới thiệu bài viết và cảm
tác của thi sĩ Tâm Nhiên, một bạn thơ của thi sĩ Trần Đới ở Kiên Hải, Kiên Giang.
Từ
thuở nào xa mù sương khói, cuối năm 1933, thi sĩ Trần Đới sinh ra trên mặt đất
này, nơi làng chài, bãi biển cát trắng Lăng Cô, rào rạt sóng vỗ ngàn năm ấy,
dường như để thi hành một sứ mệnh duy nhất, đó là chỉ làm thi sĩ mà thôi. Với
một hồn thơ bẩm sinh, hấp thụ dưỡng chất vô ngần của hồn thiêng sông núi từ khi
mới mở mắt chào đời, thi nhân đã may mắn chiêm ngưỡng, thưởng thức trọn vẹn
biển rộng sông dài, những phong cảnh ngoạn mục suốt thời thanh xuân, nên thường
xuyên xúc động kỳ cùng, rung cảm miên man một điều chi trong từng hơi thở, để
rồi bật dậy thành những tiếng thơ: Dấu
Chân Trên Biển, Tảo Mộ Lênh Đênh, Nắng Chợ Mưa Chùa, Bụi Đời Ca, Võng Nắng, Sầu
Ca, Thân Quen, Trăm Năm Đèo Biển Lăng Cô… bay bổng lồng lộng, dập dìu bướm
hoa phất phới:
Trời hồng lồng lộng nắng bay
Mai vàng rực ngõ gió đầy vườn xanh
Non cao cây uống mây lành
Biển dài sóng trải bãi gành mặn hơi
Tảo hoa đường rộn tiếng cười
Áo màu phất bướm thơm lời chào xuân
Rừng
biển Lăng Cô, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, là một bãi biển thơ mộng xanh ngần,
nằm sát dưới chân đèo Hải Vân, đẹp như một kiệt tác của thiên nhiên, vừa lung
linh sơn thủy hữu tình vừa bát ngát mênh mang, kỳ ảo một vẻ đẹp nguyên sơ quá
đỗi tuyệt vời. Chính nhờ lớn lên, được hun đúc giữa rừng thơ biển mộng như thế
mà Trần Đới đã tự bao giờ, trở thành một nhà thơ với trọn nghĩa của danh từ. Giữa
núi rừng điệp trùng hùng vĩ, tiếp giáp với biển ngàn khơi đại hải bao la, đột
nhiên nhô lên một bãi cát vàng thành làng xóm Lăng Cô với những địa danh quanh
đó như Ngạnh Rùa, Mũi Đá, Suối Ba, Suối Bạc, Ba Dốc, Hồ Tiên, Bại Kả, Bãi Chuối
đã đi vào thi ca của nhà thơ một cách tự nhiên :
Nắng trôi chiều rải khoang thuyền
Bâng khuâng nước dọi chim miền núi Lam
Ngạnh Rùa Mũi Đá rêu nham
Đèo nghiêng xe xuống miệng hầm tàu qua
Nắng về giặt áo Suối Ba
Tay vờn Suối Bạc
vóc ngà lõa hương
Cành khe đá núi chập chờn
Gió từ cổ tích xuyên mòn ngàn sâu
Hải Vân mộng chở qua cầu
Cá ra Nghệ Tĩnh củi vào Ngãi Nam
Phú Gia đỉnh ngã tóc chàm
Về truông Ba Dốc tìm nàng Hồ Tiên
Sóng gành Bại Kả lên yên
Mon qua Bãi Chuối chiều nghiêng nắng đèo
Chuông thu dội biếc lam chiều
Ngõ về ngọn nắng đăm chiêu giữa vời
Một
thời tuổi trẻ, dạt dào vô hạn những mộng đời bất tuyệt, những tâm tình thiết
tha với tình yêu diệu ảo vô vàn, chàng thi sĩ tha hồ bơi lội giữa biển ngàn sớm
trưa chiều tối, tắm nắng ăn sương, dầm mưa dãi gió sông hồ. Tâm hồn luôn luôn
nhạy cảm với cái đẹp hoang dại ban sơ, run rẩy, sững sờ trước một vệt nắng
chiều tà xuyên qua triền núi, quỳ xuống rưng rưng uống ngụm nước đầu nguồn suối
Khe Hàu mát rượi hay bàng hoàng, cười vang lên trên đỉnh đèo Hải Vân chất ngất,
chập chùng trăng nước, sương khuya. Hỡi biển đồi hoang liêu, dìu dặt ru hồn
tiếng sóng ngàn đời vang vọng mãi trong lòng, nghe vi vút từng trận gió chiêm
bao lai láng thổi bồi hồi. Ôi trăng, ôi sương, ôi nàng thơ rực rỡ, choáng ngợp
cả vũ trụ càn khôn, dưới trời đêm lênh đênh gót bụi đi về trên cung cầm huyền
mộng như có, như không, như hư, như thực mà lâng lâng lãng đãng, mơ màng trong
một trạng thái xuất thần kỳ lạ:
Gió phất phơ triền ngày rơi vội vã
Thôn ngủ yên từ đêm tận mơ màng
Tôi lờ mờ đi giữa cõi trăng hoang
Chó thức giấc sủa hời trên nẻo vắng
Đường thầm lặng mà chân còn thầm lặng
Sương mơ màng như hồn có hồn không
Nghe bâng khuâng mà lòng thoáng lâng
lâng
Nhìn ngơ ngác mà trời sâu đắm đuối
Tôi lênh đênh dưới trăng khuya rực rỡ
Lòng nhớ ai còn nhớ mãi về em
Dưới nhà kia giấc ngủ có gì riêng
Chiêm bao ấy có tôi đang thơ thẩn…
Em
có thấy gì không hỡi nàng thơ thiên thu diễm tuyệt? Em có nghe gì chăng hỡi
vầng trăng thiên cổ vô biên? Em có biết
từ buổi em về là đã mang về biết bao nguồn cảm hứng thiêng liêng làm hồi sinh
mãnh liệt trong cơn rung động choáng váng diệu huyền:
Em về đó cho cuộc đời bất diệt
Tháng ngày đi phất phới giữa muôn tình
Nắng thong dong từ thuở có bình minh
Mưa êm ái từ lần sông có nước
Em về đó đất trời không dám bước
Quỷ thần mừng người lả lướt trên mây
Muôn thơ về vắng tạnh giữa tôi say
Say
đời, say thơ, say mộng bồng tênh trên gót ngọc em về. Em về đây trên tay có cầm
một đóa hoa và một chiếc lá như là món quà tặng vật cho mặt đất trần gian. Em
đến như suối mát giữa lòng sa mạc khô khốc, làm phục sinh cho kẻ lữ hành cô độc,
sống vượt qua cơn trôn xoáy ác liệt của hư vô. Chao ơi! Em đã đến rồi, em đến
nối liền đôi bờ mộng thực, có không, sống chết… và mở ra phương trời mới lạ yêu
thương. Vâng, em chính là cái yêu thương, hãy đến với em bằng thái độ vô cầu,
không chiếm hữu, bởi vô cầu nên không hướng đến một mục đích nào cả mà hòa điệu
vào giữa lòng thực tại đang là trinh tuyền, khiết tịnh, tinh anh:
Bầu trời xanh vẫn thẳm xanh
Nắng vàng mây trắng anh nhìn vẫn cây
Bởi em chiếc lá cũng đầy
Nắng mưa và cả đêm ngày mọc cao
Rụng vàng chuyện để về sau
Lá xanh nay vẫn nguyên màu xuân xanh
Trên cây có những nhánh cành
Có bao tình đất nở thành đài hoa
Kiếp cây kiếp lá không nhà
Kiếp anh lang bạt tình ta hóa gần
Đất người từng hạt bảo trân
Tình anh yêu lá có phần cao hơn
Với
tình yêu thương vô điều kiện như thế, thi nhân quảy lên vai bầu rượu túi thơ
lên đường, tạm biệt đèo truông gió hú, mưa trào sóng nắng Lăng Cô, cất bước đăng
trình, phiêu linh viễn phương hành qua vùng trung du rồi vào tận xứ miền Nam
bộ, bắt đầu sống cuộc đời lãng tử, từ trước năm 1970. Đó là thời kỳ lang bạt Bụi Đời Ca quá độ long đong, đẫm mưa
nắng phong trần, túy lúy cuồng say từng trận trận phiêu hốt tột cùng. Không
hướng tới đâu cả mà chỉ sống và sống hết mình, hết xương xảu máu me theo thể
điệu phiêu bồng Bùi Giáng, hý lộng Tế Điên ca ngất ngưởng:
Bài thơ viết ngã ba đường
Nửa hoen nắng bụi nửa hoang gót người
Bềnh bồng cây cỏ lên ngôi
Gió mây xuống tóc đá ngồi Tu di
Trăm năm cuộc thế em về
Trăm năm mộng chở anh đi hoang đàng
Bài thơ lấm tấm lên trang
Bài thơ viết giữa hai hàng tỉnh say
Lang thang đập vỡ chén này
Chén sau làm biển mời ai xuống thuyền
Gót
chân biển núi lang thang về phố thị Sài Gòn, trôi bập bềnh giữa dòng đời xuôi
ngược, bước ngày sang đêm chập choạng bóng sầu thiên cổ vọng âm, dầm mưa dãi
nắng đầm đìa nơi góc chợ hiên chùa. Mùa mưa gió kéo dài như nỗi buồn lê thê
trên hoang vắng, ngậm ngùi đại lộ tàn khuya mỏi mệt, khói thuốc nào còn vàng võ
trên đôi bàn tay buông thõng trong những chiều mưa tầm tã, ướt đẫm mộng u hoài:
Sài Gòn có những giọt mưa
Dài như nỗi nhớ trong ta một ngày
Một ngày có những ngón tay
Vuốt mưa trên tóc dính mây nghìn trùng
Sài Gòn mưa vẫn ướt chung
Riêng ta ướt hết nửa vùng mưa chia
Ướt đi từ cõi ướt về
Ướt qua ướt lại dầm dề trang thơ…
Từng
trang thơ ướt đẫm mưa chiều nắng sớm, chuyện áo cơm lã chã mồ hôi… Rồi tiếp tục
rong rêu giữa nhộn nhịp phồn hoa phố hội, thi sĩ Trần Đới với tướng người cao
lớn, bồng bềnh mái tóc dài đạo sĩ xỏa kín bờ vai, đặc biệt nổi bật trên khuôn
mặt phương phi, hảo hán là bộ râu dài quai nón rậm rạp như thi sĩ Wart Whitman.
Chàng khoác trên vai cây đàn măngdolin cũ kỹ và một túi thơ bạc màu sương gió dãi
dầu, thường xuyên lội bộ và lội bộ suốt đêm ngày như một gã cuồng say thơ, say
nhạc, say mộng, say mơ, say rượu hồng nhan chuếnh choáng, lu bù quán nhậu vỉa
hè, khề khà đánh chén lai rai, túy lúy cùng bọn văn nghệ sĩ, đọc thơ sang sảng vang
động khắp phố đỏ phường xanh. Thỉnh thoảng ghé Đại học Vạn Hạnh thăm viếng Phạm
Công Thiện, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Hữu Hiệu… Khuya
về ngủ nhờ, ở trọ nhà bạn bè, ghé Tổng vụ Thanh Niên, thường lê la qua các chùa
chiền, tịnh xá, nhất là chùa Kỳ Viên của sư Viên Minh, nằm mắc võng đong đưa
giữa hai tàng cây lá sa la xanh vàng mộng biếc:
Chùa Kỳ Viên chùa Kỳ Viên
Nắng về giăng võng nằm nghiêng góc chùa
Sầu sầu nhìn ngọn lá trưa
Gió bay ngang võng xa mờ tiếng ru
Ai đi ngàn hướng mịt mù
Ta nằm trong giọt nắng thu nở vàng
Sài Gòn nẻo dọc đường ngang
Ngàn sau bước cũ ai còn lại qua
Trưa sầu chiều nhớ mai xa
Biệt ly dậy giữa lòng ta muôn trùng
Nắng chia bốn biển năm rừng
Ta nằm uống giọt rưng rưng góc chùa
Chùa
phố, chùa quê, chùa biển, chùa núi, những ngôi chùa, tịnh xá rải rác đó đây dọc
khắp ven đường lang bạt kỳ hồ luôn luôn tỏa bóng mát từ bi, che mát bóng đời
thi sĩ ngao du. Thế rồi bao mùa mưa nắng quặn hồn đau lữ thứ, bao tháng năm dài
cuồn cuộn trôi qua với biết bao bão tố cuồng phong, dâu biển đoạn trường, bước
đi của thi sĩ vẫn quá mộng lênh đênh trên ngút ngàn viễn xứ mười phương. Đường
của thơ là những nẻo đường ngược gió, là bến khói bờ mây dòng dòng phóng túng,
Vũng Tàu, Long Hải bỏ lại sau lưng, lên rừng cao nguyên Lâm Đồng, Đà Lạt, xuống
dọc vùng ven biển Nha Trang, Đà Nẵng, Hội An… Cuộc lữ thi ca trùng trùng những
ngã năm, ngã bảy chập chùng nơi cõi lạ:
Đã về đất nắng sao bay
Cánh hồng hoang vắng tự ngày bể dâu
Khóc xưa xuân đã qua cầu
Dòng thu phai mộng còn ngầu thanh âm
Đá vàng ngọn bấc khua trầm
Khêu hồn lửa rộng tháng năm chảy dài
Bước mòn đầu thuở man khai
Nguồn văn nẻo tưởng quanh ngoài núi sông
Lê thê gió tộc mây dòng
Bờ hoang bến lạ còn trong nổi chìm
Níu ngày sầu hoảng qua đêm
Trăm năm mộng bước ngoài thềm tử sinh
Sinh
tử đại sự, vấn đề sống chết là việc lớn nhất trong cuộc đời cần phải giải quyết
một lần cho rốt ráo thì mới mong được tự
tại tự do. Vì thế cho nên, sau những dặm dài cô lữ, sau những chuyến
viễn hành, vào năm 1989 nhà thơ
phiêu lãng dừng gót giang hồ ở thiền viện Thường Chiếu, thuộc tỉnh Đồng Nai, phát
tâm xuất gia, học thiền với thiền sư Thanh Từ, một bậc cao tăng thời hiện đại.
Từ đây, Trần Đới có pháp danh Thông Bác. Thế là cửa không tịch mở ra, toàn
nhiên hiển lộ một thứ ánh sáng huy hoàng khác lạ phi thường, tương dung tương
nhiếp, tương nhập vào cảnh giới tự tâm, tự tánh thanh tịnh rỗng rang, mở ra
những phương trời bát ngát ban sơ:
Trở về nghe máu trong tim
Giọt trôi loãng tháng giọt chìm đỏ năm
Giọt không màu sắc đang rằm
Vàng trăng có giọt chẳng tăm hơi gì
Trở về cùng gặp lối đi
Xưa sau mỗi bước hồi quy đang là
Quê mình tỉnh tại bao la
Tâm dừng tánh lặng gặp ta nằm cười
Trở
về với thực tại hiện tiền, với cái đang là luôn luôn mới lạ nên nhà thơ reo vui
trên cung bậc hân hoan sáng tạo, ngôn ngữ thi ca bây giờ chuyển nhịp muôn chiều
phiêu nhiên hào phóng, óng ánh rực màu thanh sắc, lặng trầm mà nhẹ bổng bồng
tênh:
Thênh thênh lặng lẽ một bầu
Ta trong ngọn lá xanh màu thiên thu
Ví dầu trời đất phù du
Ta trong hư ảo tuyệt trù pháp thân
Hương ngàn gió thoảng tơ xuân
Nắng yên mấy vạt giữa rừng vạn hoa
Xuân qua ta lại về ta
Giữa lòng vũ trụ gần xa một mình
Nhìn lên cây cỏ xuân nghìn
Mù sương bắc đẩu hóa hình biển khơi
Tuyệt tình xuân giữa môi cười
Mắt xanh vạn thuở về ngồi thênh thênh
Mắt
xanh vạn thuở làm gợi nhớ bài thơ của một thiền sư nào đó vẫn hoài đồng vọng
ngân nga: “Bình bát cơm ngàn nhà. Thân chơi muôn dặm xa. Mắt xanh xem người thế. Mây trắng hỏi đường qua.” Con đường mây
trắng ngút ngàn khiến cho hồn thơ phấn chấn, cảm nhận bằng trực giác bén nhạy,
nhảy tung vào cảnh giới tâm nội tối thượng thừa, đến độ vô ngôn thuyết, bất khả
thuyết mà thôi. Tuy nhiên thi sĩ vẫn ghi lại thành những tác phẩm văn nghệ, thi
ca như: Đá Vọng, Tông Thừa Tụng, Thi Hóa
Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa, Ngụ Ngôn Thiền, Yên Sơn Trẩy Hội, Nắng Nhạt Qua
Bờ, Mộng Thực, Tùy Duyên, Hiền Nhân, Hành Trạng Tâm Linh, Hạt Bụi Lang Thang… tràn
đầy chất thiền vị, thấu thị chính mình trong nhịp thở sinh động khôn dò của bầu
không khí tự do, chẳng gì chướng ngại. Phải chăng nhà thơ đã thấp thoáng thấy
được nẻo về cố quận, thầm lãnh hội được bản thể nguồn tâm vi diệu?
Liễu xanh hoa thắm cùng về
Cùng đi giữa cội nguồn mê tỉnh toàn
Thầm trao chừ đó dung nhan
Xưa như vũ trụ xanh vàng thậm thâm
Phó ngoài thành Phật Oai Âm
Tọa trong thầm nhận Pháp thân vĩnh hằng
Truyền trao Thầy Tổ một lần
Đời đời kiến Phật tưng bừng khai hoa
Một
khi thấy “hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”
rồi thì tự nhiên hiện ra cảnh giới Hoan hỷ địa, mặc sức tha hồ tùy duyên, tùy
thuận tất cả mọi sự ở đời, xem như một cuộc đại hòa điệu chơi, một trò rỡn đùa
của những thằng bé, tinh thần thi sĩ liền biến thành hài nhi ca hát hồn nhiên:
Hài nhi từ thuở qua miền
Sóng treo đầu ngọn gậy thiền phong ba
Chân tình đất rót vào da
Hương người vắng một bài ca muôn trùng
Hoa cầm miệng mỉm viên dung
Tiếng chày xuyên đá một lần rồi thôi
Khi
thấy được tánh Không của vạn pháp là mỉm nụ cười vô sự, tuy chưa đạt đến cảnh
giới siệu việt đó, nhưng thi nhân vẫn thong dong, thõng tay vào phố chợ tấp nập,
xô bồ như dạo cảnh thanh nhàn, an lạc trong một trạng thái viên dung. Một lần cửa
nẻo tâm hồn mở toang là thênh thang muôn chiều diệu dụng vô ngần:
Mở toang cửa nẻo một lần
Ngoài trong chẳng dính mảy trần bóng mây
Mặt trời sáng rực trên cây
Bốn phương gió mát thổi đầy tòa cao
Hồ trong ánh sáng dạt dào
Thênh thang đồng nội cỏ chào hương hoa
Với
phong thái tự tại hài hòa, nhà thơ nghiêng vai quảy túi càn khôn vũ trụ, đi giữa
mười phương vô sở trú với một tấm lòng không biên giới, vượt ngoài không gian
và thời gian để rong chơi giữa phù vân nhân thế:
Nơi
nào cũng một hương quê
Một
tâm vũ trụ bốn bề thời không
Mười
phương chung một tấm lòng
Ba
đời một cõi vô cùng trước sau
Ba
đời là quá khứ, hiện tại, vị lai đều gặp nhau giữa cái đang là, ngay bây giờ và
ở đây, ngay trong trái tim nhịp thở với trời mây, nhật nguyệt cùng ru điệu vô
thanh bất tuyệt ngân nga. Là thơ, là nhạc vang lên phóng khoáng từ cõi tịch
mịch vô ngôn, nơi chốn miền không có đâu nơi trong tận đáy linh hồn:
Chơn Không tủy của Phật Đà
Chảy trong pháp thể bao la vạn loài
Trở về tự kỷ mà soi
Cội nguồn ngũ uẩn chẳng nơi chốn nào
Thênh thang vô tướng nhiệm mầu
Tâm không vin cảnh cảnh nào đến tâm
Thiền nguyên bặt dấu truy tầm
Hiện tiền rỗng suốt chẳng lầm ngoài
trong
Chẳng gì chẳng phải vô công
Vô tư dụng hạnh nơi không buộc ràng
Phật là tánh sống tỉnh an
Bình thường tâm pháp sống đang là thiền
Ngộ liền thực tại y nguyên
Tử sinh chẳng chốn trọn miền Chơn Không
Chơn
Không mà diệu hữu, nên gậy thiền gõ nhịp vang âm, trầm lắng qua khắp mọi miền
thiên địa phiêu lưu, dấu chân biển núi chẳng lưu lại vết tích gì ngoài những
vần thơ ẩn hiện như khói như sương. Viễn phương ca trên lộ trình hành cước,
xuyên suốt miền Trung ra tận miền Bắc xa xôi, ghé Hà Nội, Hà Tây, lên Phú Thọ,
Vĩnh Phúc, rồi xuống Hải Dương, Quảng Ninh… Bước chân chập chùng trèo lên đỉnh
ngàn Yên Tử mông mênh:
Một trăm công án trèo lên
Hai bên là lá dưới trên là đường
Cội nguồn ngàn kiếp mù sương
Suối về hát giọt vô thường trong veo
Trèo lên Yên Tử con trèo
Nẻo Cha xưa vượt trăm đèo trăm mây
Qua bờ thực tại là đây
Giữa con giữa đá giữa cây lá về
Bốn bề thăm thẳm muôn bề
Vẫn trong giọt nhựa Bồ đề trong con
Quê Cha đất Mẹ vẫn còn
Cho con về tới cội nguồn tâm linh
Tâm
linh hiển hiện ngời ngời trên ánh mắt trong từng sát na diệu hữu. Thấy và thấy
mây trời thơ lãng đãng bay về, trổ bừng thanh thoát một nụ cười, lấp lánh vĩnh
hằng cái mặt mũi xưa nay. Thấy là thấy ngay lập tức, còn không thấy thì cứ việc
không thấy thế thôi. Chẳng hề chết chóc ai cả mà vẫn sống nổi chìm theo nghiệp
mệnh mỗi người trên trái đất muôn đời còn quay lông lốc giữa hư không. Bồng
bềnh trên con đường thi ca tha thẩn, tôi đã hội ngộ, tao phùng cùng Trần Đới
nhiều lần, kể từ ngày gặp gỡ đầu tiên ở Đại học Vạn Hạnh năm 1973, lúc thi sĩ
vừa xuất bản tập thơ đầu tay Tảo Mộ Lênh
Đênh đến nay. Rồi sau này lang thang ở đâu cũng thường xuyên gặp lại, tái
ngộ ở Vũng Tàu, Đồng Nai, Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Lăng Cô, Hội An… Có lần gần
đây nhất là dịp hè 2013, trùng phùng ở Huế cùng trọ lại chung một đêm, hát hò
văn nghệ tàn khuya tại nhà Hải Tuệ, bên dòng sông Hương sáng ngời trăng chiếu,
tôi có ngâm nga riêng tặng thi sĩ một bài thơ khơi vơi:
Không
là chi cả nhẹ vời
Trăm
năm huyễn mộng nên chơi rỡn đùa
Hết
rồi những chuyện hơn thua
Hân
hoan đi giữa bốn mùa tâm xuân
Thi
ca là ngọn lửa bừng
Rực
lòng soi sáng ngời hưng phấn này
Quay
về chuyển một hướng say
Chuyển
đêm náo động sang ngày tịnh yên
Trong
thơ mở diệu lý thiền
Đều
là như thực thuần nhiên tuyệt cùng
Đúng
sai phải trái… viên dung
Ra
vào vô úy trầm hùng đến đi
Tâm
Nhiên
Thơ Trần Đới (chữ nghiêng) trích trong
các tác phẩm:
Tảo Mộ Lênh Đênh (An Tiêm xuất bản, Sài
Gòn 1973)
Trăm Năm Đèo Biển Lăng Cô (Tổng Hợp xuất
bản 2006)
Đá Vọng (Tổng Hợp xuất bản 2007)
“hân hoan đi giữa bốn mùa tâm xuân“
Trả lờiXóa