Tính
đang đứng xớ rớ trong phòng, cạnh giường nằm của
ông Kế, thì điện thoại trong túi quần đổ chuông. Đưa
tay lấy điện thoại ra khỏi túi quần, nhìn lướt lên
mặt điện thoại, là cuộc gọi của Thảo; Tính bỏ ra
khỏi phòng.
Căn
phòng rộng bốn giường, nhưng chỉ có ba giường là có
bệnh nhân nằm, ông Kế nằm ở giường giữa, hai bên là
một bà lão gần 80, và một gã khoảng năm chục tuổi.
Người đàn ông ở tận Daklak nằm chờ mổ động mạch
vành đã mấy hôm, còn bà lão nằm suốt tuần rồi để
các bác sĩ “tìm bệnh” nhưng vẫn chưa thấy bệnh.
Trong
lúc khẩn cấp, Tính đã đưa cha vào bệnh viện Thiện
Tâm, để được cấp cứu kịp thời. Nếu có vào bệnh
viện Chợ Rẫy, cũng chẳng được hưởng chế độ bảo
hiểm y tế là bao, bởi cô con gái ông Kế ở quê đã
chuyển ông “vượt tuyến” vào Sài Gòn, mà không có sự
đồng ý chuyển viện của bệnh viện cấp tỉnh; phải
làm đủ mọi thủ tục phiền hà! Nếu phải nằm chờ
bệnh viện tỉnh đồng ý cho chuyển viện thì cũng mất
mấy ngày, cũng không dễ gì được! Ông Kế nằm im đã
ba ngày, nhưng các bác sĩ điều trị ở bệnh viên huyện
chưa cho chuyển ông xuống bệnh viện tỉnh. Thấy cha hôn
mê dần, Thảo - con gái ông, đã nóng lòng đưa ông vào
Sài Gòn mà không có giấy tờ xuất viện. Ông Kế được
sơ cấp cứu chạy tim, truyền thuốc, nằm ở đây đã ba
ngày... Trong ba ngày ấy, ông được thử máu, nước tiểu,
siêu âm tim vài lần, và cho uống thuốc, truyền dịch,
sau cùng là chụp hình động mạch chủ.
Theo
cuộc hội chẩn sáng hôm qua cùng ba vị bác sĩ đang theo
dõi điều trị, ông bác sĩ trưởng khoa đã quyết định
sẽ cho phẩu thuật tim, vì động mạch chủ đã hẹp quá
mức cho phép. Ông cho gọi Tính vào phòng để thông báo,
hỏi ý kiến, và tiến hành làm thủ tục.
Trở
lại phòng của cha, Tính nói: “Bác sĩ bảo phải mổ!”
Mổ
là mổ thế nào?
Mổ
tim…
Mổ
tim thế nào?
Là
mổ hở giữa ngực, rồi can thiệp động mạch chủ cho
rộng ra…
Cha
đã khỏe lại rồi kia mà…
Cha
vào mà nói chuyện với bác sĩ trưởng khoa đi!
Ông
Kế ngồi dậy, theo Tính vào phòng trưởng khoa. Vị bác
sĩ niềm nở mời ông ngồi - nhìn thẳng vào mặt ông,
cao giọng: “Tim của ông phải mổ mới hy vọng sống
nhé!”
Nhìn
thấy nét mặt ưu tư, e ngại của ông Kế - vị bác sĩ
mỉm cười: “Ông cứ yên tâm đi! Chúng tôi chỉ tiến
hành mổ trong hai giờ thôi!”
Chi
phí cho việc mổ nầy là bao nhiêu, thưa bác sĩ?
Hiện
tại là khoảng một trăm triệu đồng. Sang năm, sẽ lên
giá…
Bảo
đảm bao nhiêu năm?
Điều
đó không thể cam đoan chắc chắn với ông được đâu.
Còn tùy…
Ông
Kế nhớ lại vài trường hợp mổ xẻ mà ông được
nghe kể lại: Thân nhân người bệnh cam đoan nhận hết
mọi rủi ro, trong và sau khi mổ. Có người mổ xong, phải
đi lui đi tới bệnh viên hằng tháng, hai ba tháng. Có
người sau vài năm phải mổ lại. Có người nằm lì ở
nhà chờ chết! Người bạn của ông có vợ đã mổ tim
hở, đã cho ông biết, kết quả là năm mươi - năm mươi.
Năm mươi phần trăm sống tốt, năm mươi phần trăm èo
uột hay chết! Ông Kế phân vân không biết ông sẽ ở
vào năm mươi phân trăm nào! Hiện tại, từ ngày bà Kế
mất, ông đã phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của hai
con. Thảo làm điều dưỡng ở bệnh viện huyện, chồng
là giáo viên cấp một, đã có một con ba tuổi. Vợ chồng
Thảo đã nhận chăm sóc cơm nước cho ông từ hai năm nay
khi bệnh tim không cho ông đủ sức ngồi hằng ngày ở
chiếc tủ sửa đồng hồ dưới phố nữa. Đã có lần,
ông bị choáng, ngất ngã ngay ở chỗ làm, phải nhờ ba
gác chở đến cấp cứu ở bệnh viện huyện. Người ta
đã cạy gãy hai chiếc răng cửa ông để cho ống cao su
thở vào miệng. Hằng tháng, vợ chồng Thảo nhận tiền
của Tính gởi, để lo cho cha ăn ngày ba bữa. Vợ chồng
Tính đã quyết định như vậy sau khi đem cha vào Sài Gòn
sống chung với gia đình mình khoảng hơn một tháng. Ông
Kế rất vui khi biết sẽ được trở về quê, trở lại
với cuộc sống yên ả với xóm giềng, với bè bạn cũ,
với con cháu. Sống với vợ chồng Tính, ông luôn phải
ngồi bên trong cánh cửa kính, nhìn ra ngoài - nếu không
thể đọc báo hay xem ti vi được nữa vì lòa mắt, hay
buồn chán. Tuổi già của ông Kế chỉ được nuôi với
ba bữa ăn, như con Mimi suốt ngày quanh quẩn bên ông…
Như một chiếc đồng hồ, 9 giờ sáng mở cửa cho người
giúp việc vào làm việc nhà (rửa chén bát, nấu cơm và
thức ăn, lau nhà, phơi áo quần ở lầu ba, xếp áo quần
vào tủ). 11 giờ mở cửa để người giúp việc về đến
làm cho gia đình khác. 11giờ 30 ngồi vào chiếc bàn nhỏ
dành cho ông ở góc phòng, ăn cơm. 12 giờ 15 mở cửa cho
vợ chồng Tính đi làm về. 12giờ 30 vào phòng ngủ…
Thế
nào? Tiếng vị bác sĩ trưởng khoa chợt vang lên.
Thưa
bác sĩ, cho tôi suy nghĩ lại…
Chúng
tôi không thể chờ ông lâu hơn vài tháng đâu!
Bác
sĩ cho toa tôi dùng tạm thuốc vài tháng, qua Tết sẽ
quyết định - Giọng ông Kế thẫn thờ.
Ông
Kế chào từ giã vị bác sĩ trưởng khoa, lững thững
bước ra ngoài… Ông trở về phòng, nói ngay với Tính:
“Con lo làm thủ tục cho ba ngày mai xuất viện, mua cho ba
vé tàu về lại quê vào ngày mốt nhé!”
Tiếng
Tính hằn học với Thảo bên ngoài hành lang bỗng nghe rất
rõ: “Mày
tưởng tao giàu lắm hay sao? Tao có được là do công sức
của tao đã đổ ra hơn mười mấy năm nay… Mày liệu
thu xếp vào đây mà làm việc với bác sĩ, với bênh viện
đi - đừng ở ngoài đó mà gọi nữa. Chở ông già vào
giao cho tao, rồi cút ngay mà còn lên giọng đạo đức
giả! Mới ba ngày mà chi phí khám, chẩn đoán, siêu âm,
chụp hình, đã lên gần hai chục triệu, còn phẫu thuật,
ít nhất cũng cả trăm triệu, chứ mày tưởng ít sao?”
Ông
Kế về quê sống với vợ chồng Thảo đã hơn hai năm.
Qua người bạn nhắc nhở, ông đã tìm gặp người bạn
học cũ thời trung học, nay là tiến sĩ y khoa chuyên khoa
Tim mạch, hiện đang nhận làm Giám đốc cho bệnh viện
tư Phước Huệ tại QN, nhờ theo dõi, chữa trị, nên trái
tim vẫn ổn định. Hằng tuần, người bạn từ Sài Gòn đi
máy bay ra bệnh viện 2 lần vào thứ 3 và thứ 5. Trường
hợp khẩn cấp, người bạn có thể bay ra bệnh viện bất
kỳ lúc nào trong ngày nếu có yêu cầu. Ông Kế đã đến
gặp người bạn mỗi tháng một lần theo lời người bạn
bác sĩ dặn. Ông cảm thấy đã có dấu hiệu biến chuyển
rất khả quan. Ông nhận ra mình khỏe dần mỗi tháng, an
vui sống mỗi ngày, không còn nhớ đến trái tim gây phiền
nhiễu như trước nữa. Ông nghĩ: Cứ để cho nó đập tự
nhiên, như chiếc đồng hồ đeo ở tay vậy thôi. Mỗi
buổi sáng, trước 7 giờ, phải nhớ uống 4 viên thuốc
là Coversyl, Vasotrate, Lovastatin, và Aspirin 81. Trong 2 bữa
ăn, nhớ ăn thêm khoảng 5 gam nấm mèo đen rửa sạch cắt
nhỏ; như lên dây đồng hồ cho khỏi bị trục trăc.”
Vợ
chồng Thảo cũng chẳng dành cho ông chút thời gian gần
gũi thân thiết nào vì luôn bận bịu, hết việc nầy đến
việc khác; dường như công việc cứ như dồn đuổi tuổi
trẻ, dồn đuổi con người cho đến ngày kiệt sức nếu
không biết “nhìn lại”? Tuy vậy, ông đã có được
niềm vui với đứa cháu ngoại năm tuổi mỗi tối hay
ngày chủ nhật, với bạn bè, với xóm làng, và sinh hoạt
một mình tùy thích! Vui thì nằm ở trong phòng đọc sách
báo chơi, buồn thì mang chiếc xe đạp kút kít đi lan man
ra vùng ngoại ô nhìn ruộng đồng, trời mây, rồi tạt
vào chiếc quán cóc bên đường làm ly café, hay ly trà
lipton nhâm nhi cho đến giờ trở về ăn cơm chiều. Có
lúc, ông đến chùa Ngọc Tánh lễ Phật, trò chuyện với
Sư Ông, rồi “thọ trai”, ngủ lại luôn ở chùa. Ông
đã luôn có mặt trong các ngày nhà chùa tổ chức “thọ
bát quan trai”, để được nghe quý Thầy giảng kinh, gặp
bạn đạo tâm tình, trò chuyện…
Trong
số những người bạn ở quê, nhẩm tính lại, ông Kế
chỉ có thể thoải mái đến với hai người: Một là ông
Văn - giáo viên đã nghỉ hưu; hai là ông Khắc - nghệ
nhân trồng hoa, cây cảnh. Cả hai người nầy, ông đều
gọi là “tri âm”, bởi họ luôn chia sẻ cùng ông tất
cả; không chút nề hà, đắn đo, suy tính… Trong bất kỳ
tình cảm nào, còn ngần ngại suy đi tính lại, so đo
thiệt hơn, đều không thể lâu bền! Bạn bè từ thời
đi học, đi lính, đi làm, quan hệ làm ăn, thù tạc lai
rai thì nhiều, rất nhiều - nhưng, bạn để nâng đỡ,
lắng nghe, chia sẻ cùng nhau mọi nỗi đời truân chuyên
thì có lẽ rất hiếm!? Gần hết cuộc đời, ông thấy
mình cũng rất diễm phúc: Ông còn có được vài người
bạn gọi là tri âm xa gần để thăm hỏi, tưởng nhớ…
Mỗi
sáng sớm, khoảng 4 giờ 30, ông nhẹ nhàng mở cửa ra đi
với chiếc xe đạp cũ mà trước kia hằng ngày vẫn đạp
xuống góc phố. Ông đạp xe thật chậm. Kút kít. Kút
kít. Lơ đãng nhìn trời đất còn im vắng, phố chợ còn
lờ mờ trong sương. Lên đến công viên, ghé lại chỗ
gốc cây hằng ngày vẫn đến, ông dựng xe vào đó và
bắt đầu đi quanh công viên - đếm từng bước đi thong
thả, lặng lẽ, nhẹ tênh; đúng 5 vòng. Khi mặt trời ló
dạng ở hướng đông thị trấn, ông đến ngồi trên một
bậc cấp của căn nhà lục giác phía nam, ngóng nhìn cảnh
vật như một đúa trẻ lần đầu được ra ngoài, rong
chơi xa… Ông vẫn dành thời gian gần nửa giờ mỗi
sáng, để nhớ lại mọi chuyện đã đi qua đời ông, như
một cách thư giãn… Ông dừng lại ở mỗi chặng đường
thăng trầm gian khó; suy gẫm, và cười: “Rồi
tất cả cũng sẽ như vậy! Không có gì đứng yên một
chỗ!”
Câu kết luận này vẫn thường ở đầu môi ông, mỗi
khi gặp những chuyện quá u buồn. Mỗi lần nói xong câu
ấy, ông tự dưng cảm thấy vui vui, an lòng với duyên
nghiệp của mình. Xưa nay, ông thường tự khuyên lấy
mình, an ủi lấy mình. Đã bao năm, ông ít khi nhận được
lời thăm hỏi, chia sẻ thắm thiết từ các con, những
người thân, cho dầu đôi khi, ông rất ao ước được
nghe. Ông thầm mong sao mỗi ngày, mỗi tuần, hay mỗi
tháng, được nghe vài lời thăm hỏi, khích lệ, chia sẻ
của chúng để được an tâm mà sống tiếp cho hết quãng
đời ngắn ngủi còn lại! Ông đâu dám đòi hỏi gì
nhiều? Cuối cùng, ông vẫn tự khuyên mình: “Hãy
quên chuyện cũ, đừng mơ chuyện mới, phải tự mình
sống tốt với bây
giờ!”
Và, từng ngày tháng qua, từ khi rời Sài Gòn trở về gần
hai năm, ông đã sống yên lặng nhởn nhơ với mình như
vậy - như hàng cây bạc hà vô tư bên đường trước sân
nhà.
Rải
rác trên các ô sân rộng, trên thềm hành lang, hay tại
các ghế đá dọc theo bờ hồ công viên ở giữa - người
đi tập thể dục đông dần. Nhiều nhất là quý bà, quý
cô, và các em học sinh. Đàn bà tập thể dục để giữ
sắc đẹp và sức khỏe. Đàn ông tập thể dục để
mong có sức khỏe sống lâu, nhưng dường như họ ít quan
tâm hơn là việc hưởng thụ trước mắt.
Ông
vẫn ngồi yên. Lẳng lặng một mình nhìn ngó. Mỉm cười.
Và đôi lúc chợt thở dài…
Một
buổi sáng, một cô gái trạc hai mươi dừng lại.
Thưa
chú, chú ngồi nhìn gì mà cháu thấy sáng nào chú cũng
đến ngồi ở bậc cấp đây cả nửa giờ vậy? - cô
gái hỏi.
À,
chào cháu! Chú ngồi nhìn trời đất, cây lá, xe cộ, mọi
người qua lại, và đời mình…
Đời
mình làm sao mà nhìn được hả chú?
Có
đấy! Cháu chưa đến tuổi để có thể “nhìn lại đời
mình” đâu. Rồi cháu sẽ biết thôi…
Vậy
thì có gì đâu mà chú cứ nhìn hoài cả tháng… không
chán?
Không
nhìn vậy, chú biết nhìn ở đâu, bây giờ?
Cô
gái mỉm cười - bước đi. Ông Kế chợt nghĩ: “Có lẽ
mọi người quanh công viên cũng có thể nghĩ vậy, nhưng
chỉ có cô gái kia là hồn nhiên cất tiếng hỏi mà
thôi!”. Tuổi trẻ của ông cũng có thời đã trải qua
như vậy: Hồn nhiên, bộc trực, chân tình. Những tháng
năm đi học ngây thơ bay nhảy, những tháng năm vượt
rừng lội suối ào ào, những tháng năm lang bạt đó đây
không toan tính; ôi những tháng năm của một đời người
sao mà qua mau đến vậy? Ông tự hỏi: “Đã có lần nào
trong cái quá khứ ấy, ta đã dành một phút giây nào nghĩ
đến buổi sáng hôm nay ngồi ở bực thềm nhà lục giác
nầy một mình không nhỉ?”
Vợ
chồng Thảo thường thức dậy lúc 5 giờ khi ông Kế đã
ra đi khỏi nhà. Sáng hôm nay, ra mở cửa, Thảo vẫn nhìn
thấy chiếc xe đạp của ông dựng ở góc nhà giữa. Hiệp
- chồng Thảo, lo gọi con thức dậy - rửa mặt cho nó,
thay áo quần, chuẩn bị cho nó ăn sáng, pha chai sữa đem
theo, kiểm tra túi xách nhỏ đựng áo quần khăn lau, và
chở con đến trường mẫu giáo trên đường đi dạy. Lúc
Hiệp chở con ra đi, Thảo vội lên gác gọi cha dậy, để
kịp đi làm sớm một chút vì phải thay phiên ca trực cho
người bạn.
Thảo
thấy cha nằm ngủ. Yên lặng.
Cô
đưa tay vén mùng, kéo nhẹ cánh tay cha.
Cô
kéo hết chiếc mền đắp, giật mạnh cánh tay lần nữa.
Ông
Kế vẫn nằm im. Đôi mắt nhắm nghiền. Như người ngủ
say.
Cô
áp bàn tay lên mặt cha. Lạnh ngắt. Áp bàn tay lên ngực
cha: Trái tim không còn đập nữa… Thảo áp sát tai lên
mũi cha - không nghe thấy động tĩnh gì: “Cha ơi!...” -
Cô bật khóc òa lên thảm thiết: “Cha ơi, đã đi thật
rồi sao?”
Ông
Kế đã chết!
Thảo
vội lấy điện thoại gọi ngay cho Hiệp. Rồi gọi cho
Tính.
Hiệp
quay về, nhưng không thể làm gì được nữa rồi.
Trưa
hôm ấy Tính theo chuyến bay 10 giờ sáng, trở về - chỉ
kịp lo chuẩn bị cho các việc xem giờ, mua cổ quan, khâm
liệm, thành phục, mời đội mai táng thị trấn đến phụ
giúp lễ nghi... Nhớ lời dặn của ông Kế thuở trước,
Thảo vội đến chùa Ngọc Tánh (nơi đã quy y) mời thầy
trụ trì đến làm lễ cầu siêu. Vợ và hai đứa con của
Tính cũng đã lên tàu ngay chiều hôm qua.
Vì
được ngày lành, bốn giờ chiều hôm sau xe tang đã đưa
ông Kế lên nghĩa trang thị trấn - đúng giờ thường
ngày ông Kế vẫn lôi chiếc xe đạp ra để bắt đầu đi
ra vùng ngoại ô ngắm cảnh… Bây giờ thì ông cũng có
một chuyến đi, nhưng đi mãi - không về!
Vợ
con Tính sau ba ngày “làm ngu”, đã lấy máy bay trở lại
Sài Gòn vì công việc, vì không thể bỏ nhà lâu hơn. Tính
còn ở lại cho đến ngày làm tuần. Mấy ngày chờ đợi,
anh tiếp bà con, bạn bè, xóm giềng đến thăm, chia buồn.
Một buổi sáng, anh tẩn mẩn thu xếp chồng sách báo cũ
của ông Kế ở góc phòng ông nằm, tình cờ nhặt ra một
cuốn sổ tay bìa mầu nâu đã sờn cũ, to bằng hai bàn
tay, dày khoảng trăm trang…
Anh
lật vội vào trang đầu, thấy nét chữ nắn nót chơn
phương của ông Kế năm xưa: “Nhật
Ký Cho Con”…
“10
giờ Ngày 21 tháng 5 năm 1981
…
Đã qua một
ngày thở oxy ở phòng cấp cứu, nhưng mầu da của Tính
vẫn còn xanh tái, thỉnh thoảng bị co giật. Trình trạng
không có chiều hướng thuyên giàm chút nào. Cô bác sĩ
trưởng phòng vẫn thản nhiên ngồi cắm cúi ở bàn làm
việc, không tỏ chút bận tâm, hay có ý kiến gì với vợ
chồng mình cả! Chỉ có hai cô y tá là luôn đứng bên
cạnh Tính, theo dõi, nhưng cũng không có quyết định gì
mới, sau buổi chiều ấn vào tay mẹ Tính cái toa thuốc -
nói với bà: “Chị nên đi mua các loại thuốc cần thiết
cho cháu gấp đi, bệnh viện không có tiêu chuẩn đặc
biệt dành cho gia đình chị”. Mẹ Tính cầm toa thuốc,
đã ôm mặt khóc ấm ức vì biết rằng, với mấy loại
thuốc ngoại nhập hiếm hoi ấy, moi hết tiền của trong
nhà, cũng chẳng đủ! Mình đã vội đi hỏi thăm ở khoa
dược, được biết, giá cho bốn loại , mỗi loại một
hộp và bình serium đạm phải gần ba trăm ngàn. Mình đã
moi hết trong óc ra tên những người thân, những người
bạn, nhưng chẳng có chỗ nào có thể đến mượn tiền
được, ngay chỉ một trăm ngàn. Cô bác sĩ trưởng phòng
đã có ý không đổi bình oxy mới, khi bình cũ sắp hết.
Cô buông lời lạnh lùng: “Cháu không sống được đâu!”
“13
giờ chiều ngày 21 tháng 5…
…
Trong lúc
ngồi bó gối ủ rũ ở hành lang phòng cấp cứu số 2,
mình bỗng nghe tiếng người đàn bà khóc òa lên khi bước
ra khỏi phòng. Trông cách ăn mặc, dáng vẻ của bà, mình
nghĩ có lẽ bà thuộc gia đình giàu sang, hay cán bộ cấp
cao. Mình đến gần: “Sao vậy bà?” - “Cháu cần máu
để truyền, nhưng những người thân không ai có nhóm máu
AB của cháu cả! Bác sĩ nói, nếu không có máu truyền
gấp cho cháu chiều nay, cháu khó qua khỏi đêm nay đâu…”.
Mình bỗng nhớ đến loại máu của mình được khắc
trên thẻ bài năm xưa, là loại máu AB – “Tôi thuộc
nhóm máu AB – tôi giúp cháu được không?” Người đàn
bà nghe xong, hai tay chắp trước ngực: “Phật ơi! Ngài
đã cứu con tôi…”
Mình
đã đi theo bà đến phòng lấy máu nằm bên kia dãy lầu
như một cái máy . Sau khi cân trọng lượng của mình, gần
60 ký, vị bác sĩ hỏi thêm mấy câu về bệnh tật đã
và đang có, sinh hoạt hằng ngày, căn dặn đôi điều sau
khi được lấy máu cần giữ gìn, nếu có triệu chứng
bất thường thì làm cách nào, cách nào, vân vân – mình
cũng chỉ nghe như một cái máy, mong được lấy máu sớm,
để kịp thời cho người bệnh đang trông chờ từng phút
trong phòng cấp cứu. Khi cô y tá xét nghiệm máu xong, mình
được hướng dẫn ngồi vào chiếc ghế bành rộng, dựa
lưng thẳng, và cô y tá đã lấy của mình 350 milillit cần
thiết…
Mình
ngồi im một lát, và cảm thấy hơi choáng, có lẽ sau 2
ngày đêm mất ăn mất ngủ chăng? Mình nhắm mắt, dựa
lưng thẳng hơn lên thành ghế dựa nệm mousse cho đỡ
mệt. Người đàn bà nhét vào túi áo mình một xấp giấy
bạc, ríu rít nói lời cám ơn, và theo vị bác sĩ cầm
bịch máu biến ngay sau cánh cửa phòng, mình không thể
phản ứng gì… Sau hơn mười lăm phút, mình đã ngồi
dậy được - cô y tá mỉm cười dặn: “Chú hãy giữ
nguyên băng dán ít nhất 6 giờ nhé! Nên bồi dưỡng vài
hôm! Uống nhiều nước, sữa, ăn trứng, và nước cam,
tránh làm việc nặng, không thức khuya… Vài hôm là sẽ
trở lại bình thường thôi chú à!” Mình hơi ngượng vì
việc làm bất ngờ của người đàn bà, mình đâu có
nghĩ đến việc "trả ơn” như vậy của bà ta trước
đó? Mình bước vội ra ngoài, đi lững thững dọc hành
lang để trở về phòng của Tính.
Mẹ
Tính vừa thấy mặt mình, đã chạy lại khóc bật lên:
“Trời ơi! Con đang nằm chờ chết, mà ông đi đâu cả
mấy giờ?” Mình rút xấp tiền trong túi áo, không biết
là bao nhiêu, đưa ngay cho mẹ Tính. Bà xòe ngay ra đếm:
“Trời ơi! Tiền ở đâu mà nhiều vậy, ông?” “Anh
mượn của người bạn - em coi thử bao nhiêu?” “Anh
đi mượn tiền của người ta mà không biết bao nhiêu
sao? Đến ba trăm bảy chục ngàn lận!” “Em lấy ba
trăm gởi cho bác sĩ để mua thuốc cho con ngay di – nhanh
lên!”. Mẹ Tính lật đật đẩy cửa, chạy vào phòng…”
“8
giờ sáng ngày 24 tháng 5…
Người
đàn bà hôm trước lại tìm gặp mình ở hành lang trước
phòng cấp cứu của Tính. Bà đưa hai tay cầm lấy tay
mình, giọng run run: “Cám ơn anh nhiều lắm, cháu đã qua
khỏi cơn nguy kịch. Bác sĩ phòng cấp cứu cho biết vài
hôm nữa thôi sẽ chuyển sang phòng hồi sức để điều
trị tiếp, chờ ngày xuất viện!” Mình cũng đã ôm chầm
lấy bà: “Cám ơn bà, bà đã cứu con tôi!”
Tự
dưng, cả hai cùng khóc…”.
Tính
áp quyển nhật ký lên ngực mình, khóc nấc lên: “Cha
ơi!”
M.V.L (Bình Định)
Truyện hay quá. Hãy làm việc đáng làm kẻo sẽ ân hận.
Trả lờiXóaThăm Nguyễn Trí Tài!
Trả lờiXóaCám ơn Bạn đã đọc & chia sẻ cảm nhận!
Một chút tình cho mùa Vu Lan...
Chúc NTT & Gia đình An Vui!
MVL
Lâu lắm chắc anh không nhớ. Hồi đó hơn 40 năm trước, thỉnh thoảng anh có ghé nhà thăm chị của Tài ở xã Nhơn Thọ. Chúc anh luôn vui, khỏe.
Trả lờiXóa