1. Biển chiều xanh thẫm. Từng lọn sóng cuộn vào bờ cát trắng, yên bình. Thầy Nam ngồi trên phiến đá nhẵn thín nơi ghềnh đá, nhìn ra biển. Sóng vỗ oàm oạp vào ghềnh, tung bọt trắng xóa. Ngoài khơi xa, thấp thoáng những con thuyền đánh bắt cá nhấp nhô, ẩn hiện.
Đã nửa tháng nay, kể từ ngày nhận quyết định nghỉ hưu, chiều nào thầy Nam cũng ra biển. Thầy đi dạo, ghé vô quán nước, hỏi thăm một vài người, có hôm dừng lại nói chuyện cùng mấy học trò đi học về. Rồi như một thói quen, thầy rẽ xuống bãi biển, ngồi lên ghềnh đá, ngắm trời nước mênh mông. Trước gió, mái tóc bạc quá lứa lòa xòa che đi vầng trán cao. Trông thầy còn khỏe mạnh qua nước da trắng hồng lốm đốm vệt đồi mồi. Thầy ngồi đó nhìn quanh, đăm đắm về phía xa mờ mịt, hướng ấy, là quê hương, nơi có mẹ già, có vợ con và khu vườn rộng. Thường những ngày đầu tháng chạp, người em gái có chồng gần đó về phụ cùng vợ thầy làm đất, vun luống, đánh rãnh gieo trồng nào đậu, cải, xà lách, hành ngò. Cả khu vườn rợp màu xanh. Mấy ngày Tết trên mâm cơm đầy ụ thịt, cá sẽ không thiếu những đĩa rau xào hay bát canh ngọt mát. Thầy nhớ lắm, mảnh vườn đầy kỉ niệm tuổi thơ. Năm nay, thầy sẽ biến mảnh vườn đầy cỏ dại sau mùa mưa lũ thành vườn rau xanh non, mát mắt. Mỗi sáng chiều, thầy sẽ dạo quanh vườn, bắt sâu nhặt cỏ trong sự an nhàn, tĩnh tại.
2. Mới đó mà đã hơn ba mươi năm thầy Nam ra đảo dạy học rồi. Thời gian trôi nhanh, đảo nhiều đổi thay và thế hệ cùng thầy nhiều người đã không còn nữa. Nhớ ngày nào, cậu sinh viên mới ra trường loay hoay tìm việc và được một suất ra đảo. Trong thời hạn năm năm rồi về lại đất liền. Thầy đi với hành trang là lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, của truyền thống ba đời làm nghề sư phạm. Mẹ thầy không ngăn cản nhưng buồn lắm. Vì thầy là con trai cả, mấy em còn nhỏ. Cha lại ốm đau, nghỉ hưu sớm. Nhưng rồi ánh nhìn khuyến khích của cha đã tiếp thêm sức mạnh cho thầy leo lên chiếc tàu chuyên dụng vượt sóng ra đảo.
Ngày ấy, khắp nơi đều thiếu thốn, điện đài chưa có. Đảo thì nghèo và lạc hậu hơn. Thầy được phân ở trong căn phòng nhỏ, sát phòng học, dùng chung phòng vệ sinh tự họai cùng học sinh. Ngôi trường tuềnh toàng, chỉ một dãy mười phòng, trong đó một phòng ngăn đôi dành cho ban giám hiệu, một phòng làm nhà kho. Học sinh ba khối chỉ có năm lớp, mỗi lớp chỉ trên dưới ba chục em. Có năm thầy phải dạy hai môn vì thiếu giáo viên. Ở đảo, không chỉ biến động về học sinh mà giáo viên nhiều năm cũng không thể thống kê được, ban giám hiệu luôn rơi vào thế bị động. Nhất là thời điểm sau Tết. Giáo viên ở đất liền ra “bám đảo” theo lời kêu gọi điều tiết nhân sự giữa các vùng miền của cấp trên, ban đầu rất háo hứng trước người dân chân thật, mến khách, trước khung cảnh biển đảo hoang sơ, hùng vĩ, trước học trò da ngăm đen nhưng cặp mắt lay láy đầy khát vọng. Nhưng rồi những đêm xa nhà khó ngủ nằm nghe sóng dội vào bờ đá, từng cơn gió mặn mòi tạt vào nghe rin rít làn da, dọc con đường cát đầy cây xương rồng mọc, gai nhọn tua tủa đã làm họ nhụt chí. Nhiều người về quê ăn Tết đã không trở lại đảo. Học trò không thấy thầy cô, kéo nhau ra cầu cảng ngóng. Thầy Nam nhiều lần rơi nước mắt trước tình trạng ấy. Nhiều học trò vì khó khăn quá cũng nghỉ nửa chừng, thầy phải đi vận động ra lớp. Gặp mùa biển động, ghe thuyền nằm chật bến, thiếu ăn, người dân gạt nước mắt cho con em họ nghỉ, vào Nam kiếm việc làm. Thầy Nam buồn bã nhìn lớp học lèo tèo mấy em. Lời giảng của thầy chùng xuống, nghẹn ngào. Tuy nhiên, thầy cũng tự an ủi mình bằng niềm vui nho nhỏ khi có em trưởng thành, công việc ổn định đã tìm về thăm thầy như một sự tri ân.
Thầy Nam từng nghĩ đã chọn lấy nghề thì nên tạo cho mình tâm thế đón nhận, phải biết vun vén và đầu tư mới mong không… chán. Nhiều khi thấy đồng nghiệp buông xuôi, thầy cũng nản ghê gớm. Nhưng nghĩ lại, nếu ai cũng không đủ kiên trì như thế thì đảo bao giờ mới thoát mù chữ được, mà đã không có cái chữ thì làm sao xóa được cái nghèo đeo đẳng. Điều ấy đã giúp thầy vững tin vào quyết định trụ mãi với đảo, đến nỗi, khi thầy lập gia đình, vợ thầy công tác ở đất liền, lại có cơ hội rời đảo để dạy một trường ở thị trấn gần nhà thầy vẫn chống quyết định. Người ta bảo thầy không thức thời, thầy quá ảo tưởng, cứ bám riết ở đảo như thế rồi cuộc đời sẽ đi về đâu, mà cái đảo ấy giàu lên cũng đâu phải do mình thầy góp sức. Thầy không biết cuộc đời sẽ đi về đâu nhưng thầy cảm thấy vui khi từng lớp học sinh rời trường, vào đất liền học lên nữa. Nhất là sau này, trường lớp được xây dựng khang trang, thêm mấy dãy phòng, học sinh đến trường không còn lo lắng việc nhà nữa. Những chuyến đi biển dài ngày của người dân cũng ngày càng bội thu. Biển đã không phụ sự cần cù, chịu khó của con người, luôn mang đến cho họ nhiều niềm vui với những khoang thuyền đầy cá. Thầy Nam cũng được các em học sinh mang những thưc quà từ biển đến. Những vỏ ốc to nhiều hoa văn, óng ánh dưới nắng. Những cành san hô nhiều màu sắc. Những con cá, con mực to, tươi ngon. Thầy đón nhận và cảm ơn. Thầy làm sao bỏ đi cho đành.
3. Đêm trên đảo yên tĩnh lạ lùng. Trong căn phòng tập thể mới sửa sang, tường vôi xanh dịu, thầy Nam lắng nghe tiếng sóng biến ầm ào. Âm thanh này quen thuộc lắm, như đã ăn sâu vào tiềm thức. Đến nỗi mỗi lần nghỉ hè về quê, thầy lại thấy chộn chạo trong lòng, cái cảm giác nhớ đảo, nhớ sóng đến cồn cào. Vợ con thầy nhiều lần ra thăm đều bảo là ở mấy hôm còn thú vị nhưng quanh năm phải đối diện với những gì ít ỏi, đơn điệu, quẩn quanh diễn ra trước mắt thì đến chết vì nhàm chán mất. Thầy không biện hộ, vì điều ấy đúng với những người đến đảo tham quan, còn thầy thì phải làm việc, tìm niềm vui bên học trò. Dần dà thì vợ con thầy đã hiểu nên không thể thuyết phục nhằm bứng thầy ra khỏi gốc đảo nữa.
Tiếng gõ cửa, kèm theo tiếng “thầy ơi” cắt đi dòng hồi ức miên man đang dội về trong lòng, thầy Nam nở nụ cười thật tươi đón mấy học trò cuối cấp. Bọn chúng đến khi biết thầy ngày mai rời đảo. Nhìn những gương mặt thân quen đó, thầy cảm thấy xúc động, giọng nói run run. Học trò hiểu được tâm trạng thầy lúc này nên cố tình pha trò, nói chuyện tếu táo. Thầy Nam nhìn học trò, nhận ra đặc điểm sở trường từng đứa, đứa giỏi toán, đứa giỏi văn, đứa lại thích ca hát. Mãi đến khuya, học trò mới chịu ra về. Món quà để lại cho thầy là bức tranh về biển đảo mà một bạn trong lớp vẽ tặng.
4. Tàu hú một hồi còi dài, báo hiệu sắp rời bến. Thầy Nam ngoái đầu nhìn lại một lần nữa. Thật sự, đã bao lần thầy rời đảo về đất liền nhưng lần này thì khác, không biết còn dịp nào nữa để thầy trở lại đảo. Đảo nhỏ, bốn bề sóng nước, người dân đảo hiền lành, chân thật đã trở thành một phần máu thịt của thầy. Thầy xem mảnh đất này, xứ cát trắng bỏng rát bàn chân này là quê hương thứ hai, đã gắn bó suốt quãng đời làm nghề giáo.
Có vài hành khách vội vã, chen lấn xuống tàu. Thầy Nam vẫn còn nấn ná trên cầu cảng. Gió sớm thổi nhẹ, thoang thoảng mùi tanh nồng của vị biển từ những chiếc thuyền vừa cập bến. Người mua kẻ bán nhộn nhịp, tấp nập. Có ai đó giục thầy xuống tàu. Thầy Nam kín đáo đưa tay gạt đi giọt nước mắt chực lăn xuống. Khi đã ngồi trên tàu, nhìn qua cửa số, thầy ngạc nghiên trước đám học trò đứng chật trên bến đưa tay vẫy chào, rối rít.
S.T
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét