Chí tự cường, Quang Trung thay quốc tự
Luận cơ trời, Hoàng hậu bình thơ.
* * *
Nói về Nguyễn Vương ở Gia Định, ngày ấy nơi thành Sài Côn Nguyễn Vương họp các tướng nói:
- Nay đã đến mùa gió Nồm ta nên đem thủy quân thuận gió đánh Quy Nhơn. Các tướng ai có kế gì chăng?
Nguyễn Vương vừa dứt lời, xảy quân do thám vào báo:
- Tâu Thượng vương, đây là tờ hịch của vua em Tây Sơn là Quang Trung Nguyễn Huệ truyền cho nhân dân ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên. Kính trình Thượng vương duyệt lãm.
Nguyễn Vương vội đón lấy tờ hịch mở ra đọc hịch rằng:
- “Hịch truyền nhân dân ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên.
Kể từ ngày Tây Sơn dấy nghĩa đến nay, nhờ nhân dân ba phủ hết lòng giúp đỡ nên Hoàng Đại huynh ta mới dựng nên cơ nghiệp lớn. Công lao của nhân dân ba phủ thật đáng lưu truyền vào sử xanh.
Vừa rồi nghe Nguyễn Phúc Ánh được bọn người Pháp Lang Sa theo giúp, lại được thần tiên rước lên trời khiến nhân dân nghi ngại bỏ việc nông trang, xôn xao bàn điều thế sự.
Thật ra, ấy là bọn Pháp Lang Sa dùng khinh khí cầu bay được lên cao đem chuyện thần tiên phỉnh lừa bá tánh. Ta còn lạ gì khinh khí cầu của bọn chúng! Bọn người mắt xanh mũi lõ, nước da trắng bệch như một xác chết trôi ngoài biển Bắc kia nào có tài cán gì mà nhân dân phải sợ? Ta đã từng đốt cháy tàu của chúng trên sông Thất Kỳ Giang, đuổi Nguyễn Phúc Ánh lội bùn Gia Định mà chạy như một con vịt lạc. Đại quân ta, xưa nay đi đến đâu không kẻ thù nào dám chống cự, không thành trì nào ngăn cản được. Điều này hẳn nhân dân cũng đã biết!
Nay đã đến mùa gió Nồm, nhân dân hãy hết lòng giúp đỡ Hoàng Đại huynh ta đề phòng Phúc Ánh đánh ra.
Đợi hết Hạ sang Thu đầu mùa gió Bấc ta sẽ thân chinh kéo đại binh vào Gia Định tiêu diệt bọn Pháp Lang Sa, giết cho được Nguyễn Phúc Ánh. Để mầm móng phản loạn không còn manh nha quấy rối, cho nhân dân cả nước được an cư lạc nghiệp.
Nay chiếu.
Quang Trung Nguyên niên.
Xem xong Nguyễn Vương toát mồ hôi nói:
- Ta những tưởng Nhạc Huệ bất hoà nước ai nấy lo. Không ngờ Huệ lại định đem quân giúp Nhạc đánh ta. Trăm vạn quân Tây Sơn ta không ngại chỉ ngại có mình Nguyễn Huệ mà thôi!
Võ Tánh hỏi:
- Phải đến mùa gió Bấc Nguyễn Huệ mới đem quân vào đánh ta được. Nay ta nên thuận gió Nồm đánh Nhạc ở Quy Nhơn, hay củng cố lực lượng chống Nguyễn Huệ?
Nguyễn Vương lấy vạt áo lau mồ hôi trán rồi nghiến răng nói:
- Truyền lệnh ta lập tức xuất quân!
Tháng ba năm Nhâm Tý (1792) Nguyễn Vương đem đại binh theo đường biển thuân gió Đông Nam ra đánh Quy Nhơn. Thái tử Tây Sơn là Nguyễn Bảo và cha con Lê Trung, Lê Chất rút thuỷ binh vào đóng trong đầm Thị Nại, rồi chia quân giữ các nơi hiểm yếu. Quân Nguyễn Vương đánh mãi không được. Nguyễn Vương đành kéo quân về Gia Định.
Đến Sài Côn thấy trên bến sông Thị Nghè các giáo sĩ người Pháp Lang Sa rộn ràng đem gia quyến xuống thuyền. Nguyễn Vương gọi lại hỏi:
- Ta đã truyền cho các ngài được tự do truyền đạo. Vậy có ai dám kháng lệnh quấy phá các ngài hay sao mà các ngài lại bỏ đi?
Một giáo sĩ đáp:
- Nay đã gần đến mùa gió Bấc chúng tôi phải di tản về nước tránh Nguyễn Huệ đem quân vào đánh.
Nói rồi cả bọn liền từ biệt Nguyễn Vương mà đi. Nguyễn Vương vào thành mời các tướng đến thương nghị. Nguyễn Vương hỏi:
- Nay Nguyễn Huệ đã hoà với nhà Thanh. Huệ định đến mùa Thu sẽ đem quân đánh ta. Vậy ta nên tiến thủ thế nào?
Mưu sĩ Ngô Tùng Châu bước ra nói:
- Nguyễn Huệ đánh ta tất phải dùng cả thuỷ lẫn bộ, vậy ta phải chia quân ra giữ hai cửa biển Cần Giờ, Hàm Luông. Bộ quân ta tăng cường trấn thủ Trường Đồn ở phía Nam, Trấn Biên ở phía Bắc thì Thượng Vương ở Sài Côn vững như bàn thạch vậy.
Nguyễn Vương lo lắng nói:
- Kế này là kế năm xưa Ngô tiên sinh tiến cử Gia Định Tam Hùng trấn thủ các nơi ấy. Nhưng khi Nguyễn Huệ tiến quân vào thì không ai giữ nổi. Nguyễn Huỳnh Đức giữ Hàm Luông thì bị Đặng Văn Long bắt sống. Quân ta bại trận khắp nơi. Nay dùng kế ấy e cũng như năm xưa nào có khác gì?
Võ Tánh tức khí bước ra nói lớn:
- Tuy kế sách chống giữ cũng như nhau nhưng quân tình có khác. Phen này phải đánh thắng Nguyễn Huệ mới được.
Nguyễn Vương hỏi:
- Quân tình khác ở chỗ nào?
Tánh đáp:
- Lúc ấy quân ta mới mộ, còn nay tướng sĩ thiện chiến. Lúc ấy vũ khí thô sơ, còn nay người Pháp giúp ta tàu đồng, đại bác. Vả lại, lúc ấy thần còn ẩn thân ở rừng Tam Phụ. Nay thần đã quyết lòng đánh giặc lập công chuộc tội, báo đáp ơn tri ngộ của Thượng vương. Ấy là ba điểm khác nhau của quân tình vậy.
Nguyễn Vương nghe thế tạm an lòng. Từ ấy ngày đêm rèn luyện quân sĩ chờ quân Tây Sơn đến đánh.
* * *
Nói về vua Quang Trung ở Phú Xuân sai Vũ Văn Dũng đi sứ Mãn Thanh rồi, vua bàn với Trần Văn Kỷ rằng:
- Quân ta từ trước đến nay chỉ là người tình nguyện xung phong làm lính. Nay ta muốn tuyển thêm quân để dự phòng đánh Mãn Thanh, vậy phải làm thế nào?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Số người còn lại không muốn đi lính vì nặng óc trung quân, cho rằng Hoàng thượng không phải dòng chính thống. Nay nếu ta cứ bắt lính bữa bãi e náo động nhân tâm.
Vua chăm chú lắng nghe rồi hỏi:
- Vì sao lại náo động nhân tâm?
Kỷ đáp:
- Số người không muốn đầu quân khi bị bắt lính tất trốn từ làng này sang làng khác. Nếu Hoàng thượng xuống lệnh bắt gắt gao e rằng bọn hương lý thừa cơ hội ấy sách nhiễu lương dân nên náo động nhân tâm là do thế.
Đêm ấy vua Quang Trung trằn trọc mãi. Hôm sau vua gọi Trần Văn Kỷ đến hỏi:
- Nếu ta có cách bắt lính mà vẫn giữ được kỷ cương, khiến kẻ nhút nhát không thể trốn việc đầu quân, và bọn hào lý không thể sách nhiễu dân lành được thì thế nào?
Trần Văn Kỷ lại hỏi vua rằng:
- Xin hỏi Hoàng thượng, ấy là cách nào?
Vua Quang Trung đáp:
- Ta lệnh cho nhân dân trong nước mỗi người phải đeo một cái thẻ bài đề bốn chữ “Thiên Hạ Đại Tín”. Trong thẻ bài ấy phải ghi rõ tên, họ và tuổi tác. Hễ ai có thẻ bài là nhân dân trong nước của ta, rồi cứ ba tráng đinh kén lấy một người đầu quân. Nhờ đó không ai có thể trốn tránh được và hào lý địa phương cũng không có cớ gì sách nhiễu nhân dân lương thiện có thẻ bài. Nếu vậy chắc chắn tuyển được thêm quân và kỷ cương pháp luật được giữ vững. Trần tiên sinh thấy thế nào?
Trần Văn Kỷ vòng tay nói:
- Ấy thật là kế sách vẹn toàn. Hoàng thượng có tài kinh bang tế thế xưa nay chưa từng thấy vậy.
Vua Quang Trung trầm ngâm nói:
- Nước Nam ta đất rộng dân thưa. Nay ta muốn xuống hịch khuyến nông xuất ngân khố nhà nước giúp đỡ dân nghèo khai khẩn đất hoang thì mới mong dân giàu nước mạnh để đối chọi với Mãn Thanh phương bắc và bọn Pháp Lang Sa ở miền Nam được. Vậy phiền Trần tiên sinh hãy soạn hịch khuyến nông truyền khắp trong nước.
Trần Văn Kỷ tuân lệnh lập tức thi hành.
Hôm sau vua Quang Trung giả dạng dân thường đem theo Võ Đình Tú và Trần Văn Kỷ ra ngoài thành xem xét. Đến một thôn trang kia, thấy nhân dân trong thôn tụ tâp ở sân đình nghe quan chánh thôn đọc chiếu khuyến nông.
Vua Quang Trung bảo Võ Đình Tú và Trần Văn Kỷ:
- Ta mau đến gần xem thử quan lại các cấp thi hành pháp lệnh thế nào.
Vua tôi tới nơi vừa lúc quan chánh thôn đã đọc xong bài hịch rồi. Một cụ già bước ra hỏi:
- Chiếu vua ban ra quan trên đọc bằng tiếng Hán. Dân đen chúng tôi ít học nên không hiểu, nhờ quan trên dịch nghĩa Nôm cho thì dân chúng tôi mới biết trong chiếu vua nói gì?
Quan chánh thôn đáp:
- Lệnh vua ban ra bảo đọc chiếu chứ không bảo dịch chiếu. Các ngươi muốn hiểu thì tự đi học lấy chữ Thánh Hiền.
Nói xong quan chánh thôn liền bỏ về. Vua Quang Trung hỏi cụ già ấy:
- Vậy cụ phải nhờ ai dịch chiếu của vua?
Cụ già đáp:
- Nhờ quan chánh thôn chứ còn ai nữa.
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Lúc nãy quan đã không chịu dịch rồi kia mà?
Cụ già cười đáp:
- Cứ đến nhà riêng mang theo lễ vật, quan lập tức dịch ngay!
Nghe xong vua Quang Trung lẳng lặng ra về. Trên đường về Trần Văn Kỷ bàn:
- Hoàng thượng nên truyền lệnh cho quan sở tại có bổn phận phải dịch Nôm cho dân chúng nghe thì tránh được tình trạng quan lại thừa kẻ hở của pháp luật mà nhận quà cáp của dân.
Vua Quang Trung bảo:
- Ta có cách không cần phải ra lệnh cho quan sở tại dịch Nôm, mà họ vẫn phải đọc chiếu của vua bằng tiếng Nôm của người Nam ta cho dân chúng hiểu được.
Trần Văn Kỷ hoài nghi hỏi:
- Thưa ấy là cách gì?
Vua Quang Trung vừa đi đến đoạn đường có nhánh cây to bằng bắp chân đâm ngang chặn lối, vua đưa tay vận sức bẻ nhánh cây ấy xuống và nói:
- Thay đổi Quốc tự!
Văn Kỷ giật mình hỏi:
- Thế nào là thay đổi quốc tự?
- Từ nay về sau không dùng chữ Hán của người Tàu mà dùng chữ Nôm của người Nam ta viết chiếu chỉ văn thư.
Văn Kỷ lo lắng hỏi:
- Nhưng nước Nam ta từ mấy ngàn năm nay trải qua bao triều đại đều dùng chữ Hán làm quốc tự. Nay Hoàng thượng đổi quốc tự e không thuận lòng người. Xin Hoàng thượng nên thận trọng xem xét lại.
Vua Quang Trung ném nhánh cây xuống đất đáp:
- Ta đã suy xét từ lúc còn để chỏm. Nay thấy cảnh dân ta dùng chứ Hán làm quốc tự gặp bao điều rắc rối ta càng quyết tâm hơn. Văn Kỷ hãy truyền hịch khắp thiên hạ từ nay trở đi dùng chữ Nôm làm quốc tự.
Trần Văn Kỷ tuân lệnh theo ý vua mà làm.
Chiếu lệnh được ban ra. Hôm sau vua Quang Trung và Võ Đình Tú, Trần Văn Kỷ lại giả dạng dân thường ra ngoài thành xem xét. Đến chỗ đông người nghe một nho sĩ nói lớn rằng:
- Vua Quang Trung không học sách thánh hiền mới hạ lệnh dùng chữ Nôm làm quốc tự thay chữ Hán.
Võ Đình Tú nghe vậy lửa giận phừng phừng, vùng tung người nhảy đến chỗ tên nho sĩ vừa nói. Vua Quang Trung lẹ mắt nhảy với theo chụp được bàn chân Võ Đình Tú kéo xuống đất. Vua quở:
- Khi chưa có lệnh ta không được làm càn.
Võ Đình Tú tức tối nói:
- Tên hủ nho buông lời phạm thượng. Xin để thần bắt nó đến cho Hoàng thượng trị tội.
Vua Quang Trung gạt đi bảo:
- Đã nói họ là hủ nho còn chấp họ làm gì? Mau theo ta về cung.
Về cung, vua hỏi Trần Văn Kỷ:
- Kẻ hủ nho trong thiên hạ không phải là ít. Nay họ đặt điều nói gièm e không lợi cho ta. Theo tiên sinh ta phải đối phó bằng cách nào?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Việc này thật thần chưa từng gặp. Xin Hoàng thượng hãy vấn kế Ngô Thời Nhậm xem sao.
Vua trầm ngâm bảo:
- Ngô Thời Nhậm đang cùng Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết trấn thủ Bắc Hà. Ta phải triệu Thời Nhậm về ngay mới được.
Đoạn vua viết chiếu lệnh sai quân gấp ra Thăng Long. Về đến Phú Xuân gặp vua Quang Trung, Ngô Thời Nhậm hiến kế:
- Kẻ sĩ trong thiên hạ đều tâm phục khẩu phục một người, xem như bậc thầy tôn làm phu tử, ấy là La Sơn Nguyễn Thiếp. Nay Hoàng thượng mời Nguyễn Thiếp ra chủ trì việc thay đổi quốc tự tất kẻ hủ nho không còn ai dám buông lời gièm xiểm.
Vua Quang Trung mừng rỡ vỗ tay khen:
- Ngô tiên sinh thật là cao kiến. Vậy phiền khanh đến mời phu tử một phen.
Ngô Thời Nhậm tuân lệnh sắm sữa lên đường.
* * *
Nói về La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp ở Hạnh Am cốc ngày ấy đang tham thiền nhập định bỗng giật mình gọi tiểu đồng đến bảo:
Ngươi mau dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị hương án cho ta tiếp chỉ của vua.Tiểu đồng vừa làm xong thì Ngô Thời Nhậm đến đọc chiếu mời của vua. Nguyễn Thiếp vui vẻ nói:
- Xin ngài chờ cho một lát. Tôi vào trong thu xếp rồi sẽ đi ngay.
Vào trong, tiểu đồng hỏi Nguyễn Thiếp:
- Vua Quang Trung lần trước mời thầy vấn kế đánh Mãn Thanh, thầy đi rồi lại quay về. Lần này thầy đi bao giờ mới về?
Nguyễn Thiếp đáp:
- Hết Hạ sang Thu, đầu gió màu Bấc ta sẽ quay về!
Tiểu đồng lại hỏi:
- Thầy đi lo việc thay đổi quốc tự sao mới hai tháng lại quay về?
Thiếp buồn rầu đáp:
- Ta mười lăm năm ở ẩn học phép tham thiền biết điều quá khứ vị lai. Vua Quang Trung là người nhìn xa trông rộng, yêu nước thương dân, lo toan chính sự, chuyên tâm cải cách. Nhưng ta định tâm nhìn vào tương lai thấy mọi sự đều bất thành. Thật là đáng tiếc!
Tiểu đồng ngạc nhiên hỏi:
- Thấy biết việc không thành sao còn nhận lời ra giúp vua?
Thiếp trầm ngâm đáp:
- Ta từng dạy học trò rằng: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Việc vua thay đổi quốc tự dù không thành nhưng tiếng để ngàn thu. Nếu ta không giúp, người đời sau sẽ bảo ta không bằng kẻ thất phu sao?
Nói rồi liền chống gậy ra xe theo Ngô Thời Nhậm về kinh yết kiến vua Quang Trung. Vua Quang Trung bèn phong Nguyễn Thiếp làm viện trưởng Sùng chính viện, chiêu tập kẻ thức giả trong nước vào làm việc trong viện dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để truyền dạy dân chúng. Kẻ sĩ lúc bấy giờ bảo nhau rằng:
- La Sơn phu tử là người chẳng thiết công danh không màng sinh tử nên vua mời đã ba lần mà ông ấy không ra giúp. Nay phu tử là bậc thầy của bọn ta lại ra giúp vua thay đổi quốc tự tất việc này phải có ý nghĩa gì đây. Bọn ta không hiểu thời thôi chớ bình phẩm vô tội vạ kẻo thiên hạ cười ta là kẻ chẳng biết gì.
Vua Quang Trung nghe những lời ấy bèn đến Sùng Chính Viện thi lễ với Nguyễn Thiếp, vua nói:
- Xin thầy hãy nhận của trẫm một lạy này.
Thiếp thất kinh vội can:
- Hoàng thượng là thiên tử sao lại làm thế cho lão thần mang tội với trời đất.
Vua Quang Trung nói:
- Nhờ thầy ra giúp việc thay quốc tự mà kẻ sĩ trong thiên hạ không chê trẫm là người ít học. Nên trẫm đến đây tạ ơn phu tử.
Nguyễn Thiếp vừa đỡ vua vừa nói:
- Ấy là bổn phận của thần đối với dân với nước. Nay thần đã hoàn thành sứ mạng dùng chữ Nôm làm quốc tự mà Hoàng thượng giao cho, vả lại lão thần tuổi cao sức yếu xin Hoàng thượng cho về nơi nước biếc non xanh hưu trí tuổi già.
Vua khẩn khoản rằng:
- Nay trẫm mới lên ngôi, thiên hạ chưa định việc nước chưa yên. Phu tử là người nhìn xa trông rộng lại bỏ trẫm mà đi. Ngộ nhỡ trong nước có điều khó xử thì trẫm biết thỉnh cao ý của ai?
Nguyễn Thiếp đáp:
- Nói về tài kinh bang tế thế thì xưa nay không ai bằng Hoàng thượng. Vả lại giúp việc văn thì đã có Ngô Thời Nhậm, Trần Văn Kỷ đều là tay tài hoa lỗi lạc. Lo việc võ thì đã có Tây Sơn thập hổ đều là tướng trí dũng song toàn. Song thành bại là do trời mà thôi.
Vua Quang Trung hỏi:
- Ý phu tử đã quyết trẫm không dám ép. Trước lúc chia tay trẫm có điều muốn hỏi. Xin phu tử dạy cho.
Nguyễn Thiếp khiêm tốn:
- Xin Hoàng thượng cứ nói.
- Trẫm đã sai sứ sang Mãn Thanh gặp vua Càn Long đòi đất Lưỡng Quảng xưa kia là lãnh thổ của nước Nam ta. Nếu Càn Long không thuận thì sau khi tiêu diêt Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định xong, trẫm sẽ đem quân Bắc tiến đánh Mãn Thanh lấy đất cũ về cho nước ta. Xin hỏi phu tử hai việc ấy thành bại thế nào?
Nguyễn Thiếp buồn rầu đáp:
- Lão thần định tâm nhìn vào tương lai thấy không có điều bình Nam, Bắc tiến. Lão thần có một bài thơ xin trao Hoàng thượng. Đợi lão thần đi rồi Hoàng thượng hãy mở ra xem.
Nói rồi Thiếp vòng tay cáo biệt mà đi. Tiễn ra đến xe, vua Quang Trung cầm tay Nguyễn Thiếp hỏi:
- Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định chẳng qua nay mai trẫm chỉ đánh một trận là bắt được mà thôi. Còn việc đánh Mãn Thanh đòi Lưỡng Quảng, phu tử cho rằng trẫm không làm nổi ư?
Nguyễn Thiếp đáp giọng thương cảm:
- Cả hai việc ấy Hoàng thượng thừa sức làm nên!
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Vậy cớ gì thầy lại bảo không có điều bình Nam, Bắc tiến?
Ánh mắt Nguyễn Thiếp nhìn vào khoảng không trước mặt:
- Thiên cơ bất khả lậu! Những gì có thể nói thần đều viết trong bài thơ ấy cả. Xin Hoàng thượng hãy giữ gìn Long thể.
Đoạn Thiếp ứa nước mắt từ biệt vua mà đi. Còn lại một mình vua Quang Trung liền giở thư ra đọc. Thơ rằng:
“Một nước hai vua nặng vai già
Cuộc cờ phú quí pháo ngựa qua
Trời Nam mau gầy cây Sơn giống
Đất Bắc hãy còn cột Phục Ba!
Con thú một sừng gần trổ mặt
Mà người chột mắt vẫn không ra
Bao giờ Nhật Nguyệt quang minh hội
Khi ấy âu ca rỡ giống nhà.”
Đọc xong bài thơ ấy, vua Quang Trung nét mặt dàu dàu lặng lẽ lui về hậu cung. Hoàng hậu Ngọc Hân hỏi:
- Hoàng thượng có điều buồn bực chăng? Sao long nhan lại ủ dột như thế?
Vua Quang Trung đáp:
- Ta hỏi phu tử về việc đánh Gia Định giết Phúc Ánh vầ việc đánh Mãn Thanh lấy đất Lưỡng Quảng. Phu tử bảo không thấy có điều bình Nam, Bắc tiến. Phu tử lại trao cho ta bài thơ này. Ta đọc chưa rõ ý ra sao nên trong dạ không vui.
Nói xong vua trao bài thơ cho Lê Hoàng hậu. Hoàng hậu đọc xong suy nghĩ giây lát rồi bàn rằng:
- Một nước hai vua nặng vai già
Cuộc cờ phú quí pháo ngựa qua
Ý muốn nói rằng trong bàn cờ bá vương đã có vua em Quang Trung còn có vua anh Thái Đức. “Nặng vai già” có lẽ ý nói thầy phu tử không kham nổi nên mới về ở ẩn chăng?
- Câu này ta cũng hiểu nghĩa chung là như thế. Vậy hai câu tiếp theo ý thế nào?
Hoàng Hậu đáp:
- “Trời Nam mau gầy cây sơn giống”. Phu tử bảo không có điều bình Nam, vậy Nguyễn Phúc Ánh không bị diệt nên phục quốc. Gầy cây Sơn giống… ý muốn nói nên gìn giữ dòng giống của nhà Tây Sơn chăng?
Vua Quang Trung giục:
- Hoàng Hậu cứ bàn tiếp xem câu thứ tư là ý thế nào?
- Câu thứ tư là Đất Bắc hãy còn cột Phục Ba. Cột Phục Ba là cây cột mà hai ngàn năm trước tướng nhà Hán là Mã Viện trồng ở ranh giới nước ta và nước Tàu. Câu này nghĩa là cột Phục Ba hãy còn đó thì không có điều Bắc tiến.
Vua Quang Trung trầm ngâm nói:
- Hai câu này đúng y như Phu tử đã nói với ta. Còn các câu sau thế nào?
Lê Hoàng hậu bàn rằng:
- Trong rừng sâu có một loài thú dữ một sừng gọi là Tê Giác còn có tên là con Tây. Nay nghe nói người Tây dương theo giúp Phúc Ánh ở Gia Định có lẽ ứng vào câu năm là “Con thú một sừng gần trổ mặt” chăng?
Vua Quang Trung lặng lẽ hỏi:
- Còn câu tiếp theo?
Lê Hoàng Hậu đáp:
- Ba câu sau thiếp thật không hiểu là ý thế nào! Nhưng xét cho cùng lời Phu tử đã lấy gì làm chắc.
Vua Quang Trung buồn rầu nói:
- Lần trước Phu tử đoán trong năm ngày ta đại phá quân Thanh quả nhiên không sai. Lời Phu tử không thể xem thường. Nhưng việc đáng làm ta cứ làm, thành bại là do trời vậy.
Lê Hoàng hậu đến gần an ủi vua rằng:
- Việc đánh Phúc Ánh, đàn bà như thiếp cũng biết rằng trăm phần chắc thắng. Sao Phu tử lại bảo là không có điều bình Nam? Thiếp e lần này Phu tử lầm lẫn làm cho Hoàng thượng phải phiền muộn. Xin Hoàng thượng hãy vào trong cho thiếp hầu hạ đừng nên lo lắng làm gì.
Vua vừa đứng lên toan đi theo Lê Hoàng hậu, bỗng quân cận vệ vào báo:
- Tâu Hoàng thượng, tướng quân Đặng Xuân Phong và tướng quân Võ Đình Tú đang đánh nhau ở điện Thái tử.
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Có việc ấy thật sao?
Quân đáp:
- Thưa, hai tướng được lệnh thái tử phải thí võ cho xem nên đánh nhau long trời lở đất.
Vua hầm hầm nổi giận, lập tức đến điện Thái tử. Đến nơi thấy Võ Đình Tú dùng côn đồng, Đặng Xuân Phong dùng côn sắt quần nhau chí tử. Thái tử Quang Toản và quan nội thị Bùi Đắc Tuyên cùng bọn quân hầu vỗ tay reo hò inh ỏi, Vua Quang Trung quát lên như sấm rằng:
- Mau dừng tay lại!
Tú và Phong đang đánh nhau hoảng hốt quăng côn. Mọi người đều quỳ thi lễ. Vua lớn giọng hỏi Tú và Phong:
- Hai ngươi đều là đại tướng của ta. Đường côn khai quốc lại đem làm trò vui cho kẻ khác mà không biết thẹn hay sao?
Võ Đình Tú cúi đầu đáp:
- Thái tử lệnh cho thần và Đặng tướng quân đấu võ cho người xem, nên chúng thần không dám không vâng.
Vua gọi Quang Toản đến hỏi:
- Vì sao con lại làm việc ấy?
Quang Toản lúc ấy mới mười tuổi, Toản vừa chỉ quan nội thị Bùi Đắc Tuyên vừa tâu rằng:
- Thường ngày cậu theo chơi với con, thấy con phiền muộn cậu bày con gọi tướng quân Võ Đình Tú và Đặng Xuân Phong đấu võ cho con xem.
Vua Quang Trung cả giận quát Bùi Đắc Tuyên rằng:
- Ngươi là cậu ruột của thái tử nên mới được phong làm quan nội thị trông nom thái tử. Sao dám xúi thái tử làm điều xằng bậy khinh dễ công thần, tội thật đáng chết. Quân bay lôi ra chém.
Quang Toản qùỳ khóc van xin:
- Từ ngày mẫu hậu mất đi, cậu thay mẹ trông nom lo lắng cho con. Nay phụ hoàng giết cậu thì lấy ai lo cho con. Xin phụ hoàng tha cho cậu một phen.
Vua Quang Trung ôm Quang Toản vào lòng nói:
- Nể tình thái tử ta tha chết cho nhưng phải đánh hai mươi roi làm gương cho kẻ khác. Võ sĩ mau thi hành lệnh ta.
Bùi Đắc Tuyên bị đánh hai mươi roi vào mông lột da chảy máu đau đớn lắm cà nhắc mà về nhà.
(Hết chương 57)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét