|
Nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ |
CÓ
ĐIỀU NHƯ CHƯA NÓI
VỚI SÔNG TRÀ
Tháng ba, đêm xứ Ấn tiết trời mát mẻ, tôi cầm bản thảo tổng tập thơ của nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ trên tay, lòng
băn khoăn thầm nghĩ, không biết ở một đất nước xa lạ, đọc thơ ông
có được cái cảm xúc như ở quê mình chăng?
Và rồi nhiều đêm như thế, cứ nghĩ đến trạng thái này tôi
lại chìm vào thơ ông. Đọc và chiêm nghiệm một đời người, một đời thơ...
Nguyễn Thế
Kỷ có tên thuở nhỏ là Bích, ông
sinh năm 1931, tại xã Nghĩa Trung
(nay là thị trấn La Hà) huyện Tư Nghĩa,
tỉnh Quảng Ngãi. Thi đỗ Primaire 1954.
Với bản
chất phóng khoáng,
thông minh hiếu học, say mê văn chương, năm 14 tuổi, trước khi đi thi
Primaire ông viết bài thơ "Thương con phù
du". Đây là bài
thơ cảm tác nhân câu
nói của Bà nội quê mùa chân
chất nơi xứ Quảng thân yêu, đã
ám ảnh tâm hồn thơ ngây
của ông, ông viết một mạch bài thơ này.
Trong đó có đoạn:
"Đứng trước trời chạng vạng
Có thể nói, đó là tâm hồn của
ông, nghệ thuật của ông, chỉ đơn giản vậy thôi, mà đậm sắc màu xứ sở. Khác với nhiều nhà văn, nhà
thơ khác,
trong thời đại ảnh hưởng văn học Pháp, chất lãng mạn, trữ tình được khai thác rộng rãi, thì Nguyễn Thế Kỷ vẫn ung dung một hồn thơ dân
tộc chân chất, đơn mộc:
"Nhà
nàng xưa ngõ
hoa phong
Bình
dân học vụ lớp trong, lớp ngoài
Vừa đêm hò hẹn đã ngày hợp tan"
Từ biệt
Ngõ xưa đã
tàn, chàng thanh niên
Nguyễn Thế Kỷ viết bài thơ "Ngoảnh lại" chôn dưới chân cầu. Tôi cho đây
là áng thơ đầy
cảm xúc thi ca, mà
sau này nhà nghiên cứu
văn hóa dân gian Nguyễn
Đức Quyền, trong lúc
sinh thời đã có dịp bình bài thơ này:
"Ô
hay! Trăng suông ôm chân cầu
Nghé
nhìn đáy nước biết đêm sâu
Ngoảnh lại, đèn ai chong
mắt mẹ
Canh
mòn chặp tắt cuối chòm sao"
Đặc biệt,
với sông Trà có bờ xe nước nổi tiếng, ông viết:
"Sông
Trà nước cỡi bờ xe nước
Như ngựa tung bờm trăng trắng qua
Ve
hát hè ran nghe bát ngát
Ống tre rưng rức múc trăng
ngà..."
"Sông
Trà" đẹp cuốn hút, và đầy thi ảnh. Hình ảnh con ngựa trắng của tráng sĩ xưa trong
"Chinh phụ ngâm" bỗng hiện về trong thơ Nguyễn Thế Kỷ. Thuở ấy nào "vó
ngựa",
"tráng sĩ hề", "kiếm báu", v.v... luôn ám gợi người làm thơ, nên
cái "rưng rức" của ống
tre như lòng
người ra đi, dù có
múc mãi thì nước cũng sẽ không bao giờ trở lại.
Trong
"Hai cuộc tình của Lý Chiêu
Hoàng":
"Giữa đêm mưa gió
Kinh thành
Thái
sư binh mã
núi xanh tận tường
Bắt Vua Trần Cảnh cung đường
Bắt anh Trần Liễu tình trường chông
gai"
Những giọt thơ
cổ điển, như giọt nước mắt hiếm hoi trong tập thơ "Ngoảnh lại" của Nguyễn Thế Kỷ, điểm xuyết mối lương duyên
"đứt nối"
giữa xưa và
nay. Tuy vậy, không hề hấn gì khi ông viết những câu thơ tự do đầy sung sức và tràn chất hiện đại:
Độc giả
sẽ cảm nhận được tính đa dạng qua thơ Nguyễn Thế Kỷ, dù viết với cung bậc nào, ông cũng
dùng thủ pháp biến hóa sinh động trong từng thể loại. Ở mảng thơ về đề tài xứ Quảng, Nguyễn Thế Kỷ hướng đến những cảm xúc đầy ắp kỷ niệm của 12 cảnh đẹp miền núi Ấn sông Trà. Với đề tài này, thể Đường luật được sử dụng như một thế mạnh:
"Nghiêng
xuống lòng sông ánh
nắng lành
Đượm màu non nước - Ấn long lanh
Yêu quê hương xứ Quảng
tha thiết, Nguyễn Thế Kỷ luôn tâm nguyện là hướng lớp hậu thế biết quay về cội nguồn. Tình quê hương tuôn
trào theo ngòi bút
một cách sinh động, từ "Thiên Ấn niêm hà, La Hà
thạch trận, Thạch Bích tà dương"...
đến "Cổ Lũy cô thôn". Đặc biệt, dòng sông Trà như mạch nguồn tuôn chảy suốt
chiều dài thơ ông,
tình cảm chân thật, ấm
áp, hiền hòa nhưng mãnh
liệt đã lôi cuốn người đọc tìm về cội nguồn linh thiêng
trong từng trang thơ cảm xúc:
"Một mối tình, đã mấy thế kỷ qua
Có
điều như chưa nói
với sông Trà
Dát
bạc đầu nguồn, lung linh nắng quái
Ánh
tà dương “Thạch Bích”, ngỡ trăng ngà"
(Điều chưa nói với sông Trà)
Quả thật,
"điều chưa nói
với sông Trà"
là điều tha thiết nhất, rung động nhất của con tim về nơi chôn
nhau cắt rún, nơi những kỷ niệm thiếu thời chất đầy ngăn ký ức. Phải chăng tâm thức sông Trà là
đây? Là tiếng nói lặng im... mà bao
người con đất Quảng ra đi nhất định sẽ quay về. Tôi có may mắn là người đồng hương, đồng
cảm với tâm thức nhà thơ, nên
viết đến đây từng sợi thần kinh cảm xúc trong tôi
có dịp bừng dậy, rung lên...
Có thể nói, trong bối cảnh
lịch sử thời chàng trai
Nguyễn Thế Kỷ đang sống đã vẽ nên bức tranh con phù
du. Theo quán tính, loài phù du tiếp nhận
ánh sáng, dân gian gọi
là thiêu thân! Những
câu thơ thấm đẫm chất nhân văn sẽ lung linh trong
vầng hào quang của nó:
Hãy đọc "Người sàng sỏi", mà sau này ông viết như là
một khẳng định cho con đường đã chọn: con đường tìm chỗ sáng!:
"Dặm trường còn lắm ngổn ngang?
Sàng
sỏi… Sàng từng viên sỏi!"
Vâng, ông đã "sàng lọc" từng viên sỏi đời mình và chọn nghề cầm bút. Vất vả gian nan, lên
thác xuống ghềnh là vậy, ngòi bút ông
vẫn đứng vững là một điều không tưởng. Những thành tựu mà hôm nay có
được từ những không tưởng, quả là mồ hôi nước mắt. Và như nhà biên kịch Lê Sinh Dân đã giới thiệu trong "Ngoảnh lại" rằng:"Cuộc đời
và sự nghiệp văn chương của nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ là một gia tài đồ sộ của sự sáng tạo không ngưng nghỉ. Anh là nhà
văn, nhà thơ, nhà
biên kịch, nhà báo, đạo diễn sân khấu..." Với một trong các vai
trò đó thôi, một người thường cũng khó
thành đạt, huống hồ bấy nhiêu vai trò.
Trải nghiệm cuộc đời chính là vai
trò lớn nhất làm nên thơ Nguyễn Thế Kỷ. Ông "sàng
lọc" cuộc đời, và cuộc đời "chọn lọc" ông. Và
chính Hà Nội hào hoa, Nguyễn Thế Kỷ đã gầy dựng cơ nghiệp cầm bút trên đất văn vật kinh kỳ suốt thời tuổi trẻ say mê.
Lặn lội
sơn khê
biết bao gian khổ, vậy mà về đến Hà Nội chất thơ lãng
mạn bỗng trào dâng:
"Lâu
không dám viết thơ tình
Đêm
nay “đôi mắt” làm mình ngẩn ngơ"
Ấy là Hà Nội mùa thu, chàng trai 26 tuổi ngẩn ngơ trước "dáng Kiều". Nhất là đôi mắt ấy, đôi mắt đã từng tiễn đưa "người ra đi"
bên bờ sông Trà năm
nào:
Dưới ánh đèn, anh bắt gặp
Qua những phút chạnh lòng như thế,
đứng trước Hồ Tây và nhìn lại bóng mình qua
bóng nước:
"Ngỡ là cánh bướm chợt chao ngang
Khẽ chạm bờ vai lá sấu vàng
Đứng ngắm mặt mình trong mặt nước
Hồ Tây sóng gợn gió Thu sang...
Quả thật,
Hà Nội đất thiêng, đã gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp, là nơi trưởng thành của một nhà thơ miền Trung, như ông.
Với tình yêu chân thành, ngòi bút ông hướng tới sự sống động:
"Cổng chùa “Quan
Thánh” là đây
Đầu đường rẽ lối Hồ Tây, hẹn rồi
Mà
sao gió cứ xa xôi thế này?
Thuyền mô nhẹ đẩy chân ai
Mắt mô cứ nghé nghiêng
hoài bên tê
Rủ nhau liệng xuống rặng tre cuối hồ…"
Bài
thơ như một bức tranh tuyệt đẹp, những nét chấm phá độc đáo theo cách
riêng. Hai câu kết là một phát hiện kỳ diệu, xóa tan sự e ngại của cô gái chèo
thuyền hái sen trên hồ Tây.
Và
cuối cùng, Hà Nội cũng là
"nơi đất
ở" để ông tung bay thỏa chí tang bồng. Từ Hà Nội ra đi, đã có
"Giọt buồn trên sân
ga":
Tháng 10 năm 1989, ông làm Trưởng Đoàn nghệ thuật Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam đi dự Hội thảo Sân khấu Thế giới tại Praha, và bài
thơ "Đêm
thu" ra đời:
"Tiếng gì trong đất lặng im
Hay
là nhịp thở Hạ tìm sang Thu
Tiếng gì đâu phải tiếng ru
Đứt từ mây xuống, nối từ sông lên
Đây là bài thơ ngẫu hứng
nhưng có
cấu tứ chặt chẽ, mạch thơ dường như sẵn có trong tâm hồn. Thông thường thơ làm
ta bất ngờ ở câu kết, ngược lại ở đây khiến ta bất ngờ ở câu mở đầu:n"Tiếng gì trong đất lặng im/ Hay là nhịp thở hạ tìm sang
thu...". Hóa ra sự
lặng im của đất chính là tiếng nói sâu thẳm, ôm ấp mùa màng. Một sự chuyển dịch về địa lý, có thể lay động đến sự chuyển dịch trong tâm hồn. Ở Việt Nam có thể chưa lay động
bằng ở xa Việt Nam. Praha chạnh nhớ về đất mẹ, nên trong thơ không
có hình ảnh xứ lạ quê người mà có tiếng đỗ quyên, có lập lòe đom đóm;
và vầng trăng cũng thế, ánh trăng nhễu sầu của tâm trạng người xa xứ nhớ quê! Qua bài thơ, ta tìm
thấy một thú vị khác: "Tiếng gì trong đất lặng im" hầu như là
tiếng của tâm hồn nhà thơ, có
gì đó liên
lạc với quê hương, với mạch nước sông Trà. Thực ra, nghe được "tiếng gì trong đất" là nghe
thiên nhiên. Chúng ta thường
gọi đất là người mẹ vĩ đại, mỗi chúng ta đều ở trọ trên quả đất và trong vòng
tay thiên nhiên. Sở
dĩ mặt đất có tiếng nói, là để chúng ta có nơi liên
lạc trong chính
tâm linh mình và trong chính nơi
mình được sinh ra và chết đi. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:" Khi ta ở, chỉ là nơi đất
ở/ Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn" luôn trở thành châm ngôn
cho mọi thời, bởi vì đất hóa tâm hồn là một sự đúc kết, nghe được tiếng của "tâm hồn ấy" là tinh
túy của tinh thần thi sĩ.
Tóm lại, những nhà thơ có phẩm chất, thường thể hiện bản sắc thơ mình
đa chiều, đa dạng đề
tài của cuộc sống. Nguyễn Thế Kỷ là một người như vậy, ông hít thở bầu khí quyển thi ca của thời đại, lấy đó làm nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho ngòi bút hiện thực lãng mạn của mình. Ông đã cố gắng vượt bậc tìm ra con đường thơ riêng
cho mình, như nhà thơ Thanh Thảo đã nhận định rất đúng rằng: "ít nhất, ông đã mở cho mình một lối đi mới".
Ở tuổi
88, ngày ngày ông vẫn
ngồi bên trang giấy, như con tằm rút ruột nhả tơ, lặng lẽ dốc tâm huyết và trải nghiệm của mình ươm cho đời
những tác phẩm giá trị. Với ông, thành công
chính là sự bình dị của ngôn từ, và sự chân thành của cảm xúc, nên đọc thơ ông
ai cũng thấy gần
gũi mà không dễ dãi, mộc mạc mà không thô
nhám. Sự thâm trầm, sâu sắc ẩn hiện đâu đó trong từng câu chữ...
Viết xong từ thành phố New Delhi India tháng 3 năm 2018
Nguyễn Thánh Ngã
Chuyên
mục “Trang Thơ Chủ nhật Hương Quê Nhà” tuần này xin trân trọng gửi đến quý bạn đọc,
bạn viết chùm thơ “Đèn ai chong mắt mẹ” của nhà thơ Nguyễn Thế kỷ do nhà thơ Nguyễn
Thánh Ngã chọn lọc và giới thiệu.
NGOẢNH LẠI
Ô
hay! Trăng suông ôm chân cầu
Nghé
nhìn đáy nước biết đêm sâu
Ngoảnh lại, đèn ai chong
mắt mẹ
Canh
mòn chặp tắt cuối chòm sao
Dế run dưới cỏ, cỏ đầm sương
Cầu chùng mắc võng qua đêm
buông
Võng
chao như hứng treo trăng xuống
Một dải lụa in lấm tấm buồn
Lụa cuốn trăng mềm bên mé sông
Hoa
đâu bay hương thơm bềnh bồng
Sương phun mây
sơn đen
thành sắt
Khoảng cầu trăng có, khoảng trăng không
(7/1954)
RỜI TRÀ KHÚC
Con
thuyền xuôi nặng con thuyền xuôi
Ngược chảy dòng xanh ngược bãi bồi
Chín
khúc sông Trà như quặn thắt
Không
lời mây trắng với sương thôi
Sương loang tiếng cuốc gọi xa lơ
Buồm cuộn đêm trôi nước lặng lờ
Cao
thấp đôi bờ tre khắc khoải
Ngập ngừng xe nước cũng vò tơ
Tơ vương xuyên
đan chia không gian
Người đi kẻ ở, sương không
tan
Nước mắt, nước sông, chèo
khuây khỏa
Tìm
đâu Trà Khúc ánh trăng tàn
(Quảng Ngãi, 1954)
MỘT LỜI LẶNG IM
Nằm mơ đụng
phải hương Quỳnh
Nửa đêm bất chợt giật mình sáng bưng
Trường chinh nào nhớ quãng rừng
Bỏ quên tuổi trẻ giữa lưng chừng đời
Đông
tàn ngồi đếm Xuân rơi
Bỗng đâu nghe rớt một lời… Lặng im!
BÊN
HỒ GƯƠM
Trăng
Trung thu Hồ Gươm
Tròn
xoe con mắt thỏ
Tay
vói trăng, chân nhảy
Sóng
dập dềnh trống lân
Điện quanh hồ nở hoa
Sao
điểm vàng như bướm
Lạc đường, theo đom đóm
Đôi
cánh bay lập lòa
Mây chập chờn
mắt thỏ
Trăng
bỗng lao xuống hồ
Trời cũng bơi trong đó
Gió
thơm lừng Thủ đô
Ẳm trăng lên em
múa
Thoáng
bóng “Rùa” đuổi theo
Cả trời Thu huyền ảo
Lá
Thu rơi đánh
vèo…
(Hà Nội, Thu 1962)
THU
TÂY HỒ
Ngỡ là cánh bướm chợt chao ngang
Khẽ chạm bờ vai lá sấu vàng
Đứng ngắm mặt mình trong mặt nước
Hồ Tây sóng gợn gió Thu sang
(Hồ Tây, Thu 1962)
THÔI
RỒI!
Cổng chùa “Quan
Thánh” là đây
Đầu đường rẽ lối Hồ Tây, hẹn rồi
Mà
sao mây cứ lờ trôi
Mà
sao gió cứ xa xôi thế này?
Thuyền mô nhẹ đẩy chân ai
Mắt mô cứ nghé nghiêng
hoài bên tê
Thôi
rồi, hai con Te Te
Rủ nhau liệng xuống rặng tre cuối hồ…
(Năm 1963)
HẠ LONG
Hạ Long đảo đá điệp trùng
Thuở nào ai dựng mê cung diệu kỳ
Sóng
cồn vỗ đá nguyên si
Đá
trơ hết cả sù sì lãng quên
Sóng
chìm đá nổi bồng bềnh
Đá
chìm sóng nổi trắng nền biển xanh
Lá
chèo, mắt lưới long lanh
Đầu thuyền dợn cá, cuối gành hoàng hôn
Đá
không là đá vô hồn
Nước không là nước lạnh lùng biển khơi
Thủy triều lặng lẽ đầy vơi
Ngổn ngang đá nước, tình người mơn man…
(Hạ Long, Hè 1963)
N.T.K
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét