Ca dao Nam bộ là một bộ phận quan trọng trong văn học Việt Nam nói chung và văn học dân gian nói riêng. Ca dao đi vào lòng người bằng sự hiền hòa, chất phác, mộc mạc, bình dị. Với ngôn ngữ dân gian, người dân Nam bộ đã mượn hình ảnh quen thuộc mang tính biểu tượng, đặc trưng riêng của vùng, miền mình đang sinh sống để nói lên tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình cũng như những vấn đề trong cuộc sống.
Người Việt Nam, nhất là người dân vùng Nam bộ không ai là không biết câu “Nước chảy cật bần run lẩy bẩy. Gió đưa dái mít giãy tê tê”, hẳn sẽ cảm nhận được cách nói quá dân dã, bình dân của người Nam bộ. Thật vậy, ở đồng bằng sông Cửu Long có một loài cây mà ai cũng biết. Đó là cây bần. Cây bần là loại cây đặc thù của vùng đất bồi lắng phù sa này. Không biết cây bần có mặt trên trái đất từ lúc nào, chỉ biết rằng bần là món quà mà thiên nhiên ban tặng cho người dân vùng sông nước. Rặng bần cao lớn, uốn mình theo các voi, vịnh của dòng sông. Bần mọc dày đặc ở ven sông, kênh, rạch. Ở đâu cũng có mặt của cây bần. Như có một sức mạnh vô tận trong đất, bần lúc nào cũng xanh tươi, khỏe khoắn đến kỳ lạ, cũng giống như những con người chân lấm tay bùn ở vùng đất này, vượt qua bom đạn, sự khắc nghiệt của thiên nhiên vẫn thể hiện sức sống mãnh liệt, vững vàng trước phong ba bão táp.
Bần thuộc loại thân gỗ, dai, màu xám, bần phân nhiều nhánh dễ dàng từ thân chính nên có thể khai thác cành mà không ảnh hưởng tới cây. Rễ bần chia thành 2 phần: phần rễ gốc mọc sâu trong đất, phần rễ thở là phần rễ mọc thành từng cụm quanh gốc chĩa thẳng lên trên mặt nước. Mùa mưa đến là mùa hoa bần; hoa bần phía ngoài có màu trắng, mặt trong có màu tím hồng trông rất đẹp; cái màu trắng và tím hồng của hoa bần tinh khiết lạ thường; nhụy hoa bần rụng trắng mặt sông và khi đó dòng sông như thay áo mới. Quả bần hình tròn bầu dẹt, ruột chứa nhiều hạt nhỏ, cuống có thủy đài xòe ra; khi chín, quả bần rụng trôi theo dòng nước, hạt phát tán trên các bãi bồi và mọc thành cây con. Muốn trồng bần, người ta đi dọc theo bờ sông, kênh, rạch nhổ những cây bần con mọc sẵn tự nhiên đem về trồng là được, không cần phải gieo hạt. Bần là loại cây ưa sáng, mọc được ở nơi nước ngọt, nước lợ cả nước mặn. Bần thích nhất là nơi có thủy triều lên xuống đều đặn, nước lên tới đâu, bần vươn ra tới đó và mọc thành hàng thẳng tắp. Ban đầu bần chỉ là loài cây dại sống trong môi trường nước, ít được mọi người chú ý vì không có giá trị về kinh tế nhưng càng về sau lợi ích của cây bần được khẳng định, nó góp phần không nhỏ trong cuộc sống thường ngày của người dân, nhất là những nông dân hiền hòa, chất phác. Lợi ích trước mắt mà chúng ta nhận thấy là nhờ hệ thống rễ liên kết và trải rộng, có khả năng chịu ngập úng và tái sinh khỏe, bần đóng vai trò “neo” giữ đất tạo điểm cho bùn bồi đắp tránh sụp lở đất, bảo vệ và phát triển các khu rừng ngập mặn ven biển, có tác dụng chắn sóng lý tưởng cho các bờ đê lúc gió bão, triều cường. Cũng giống như những con người của vùng đất này, vượt lên bom đạn, vượt qua phong ba bão táp, rặng bần như có một sức mạnh vô tận trong đất, chúng sống xanh tươi, khỏe khoắn đến không ngờ. Chính vì lợi ích đó mà ngoài việc bần mọc tự nhiên, người ta còn trồng bần ở các mé sông, kênh rạch, các đầu voi, bờ đê không chỉ để tránh sụp lở đất mà còn nhận được nguồn phù sa do đất bồi làm cho đất màu mỡ hơn, giúp cây tươi tốt hơn.
Trong cuộc sống, người dân Nam bộ còn biết cách tận dụng những loại cây trái có sẵn trong thiên nhiên để làm thức ăn, thức uống và cây bần cũng không ngoại lệ. Từ xưa, bần có mặt trong bữa ăn hàng ngày của người dân, được người dân dùng để chế biến thức ăn như gỏi bông bần, canh chua bần, bần kho cá, lẩu bần… Cái hương bần chín nồng nàn, vị chua đậm đà ăn một lần nhớ mãi, có thể theo ta đến cùng trời cuối đất.
Ví dầu bắt cá nấu canh
Dầm bần thêm ớt cho thanh cho nồng
Vào mùa nước nổi, khi đi làm, ngược xuôi trên vùng sông nước, kênh rạch, người dân thường đem theo mắm cá sặc, mắm cá chốt, ba khía, vài trái ớt, cọng rau, chuối sống, cơm nguội xuống xuồng bơi dọc triền sông là cả không gian dậy lên mùi bần chín, những chùm bần chín mộng đu đưa theo gió, thỉnh thoảng bần chín rớt xuống nổi lềnh bềnh trên mặt nước, chỉ cần vớt lên neo thuyền lại tại một rặng bần nào đó giỡ tất cả ra là có một bữa ăn khoái khẩu đủ vị mặn, ngọt, chua, cay. Quả bần chín còn được dùng để làm nước chấm (nước mắm chua) hoặc dầm với nước cá kho. Đặc biệt món ăn dân dã rất được người dân ưa thích là "mắm sặc bần chua”
Muốn ăn mắm sặc bần chua
Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm
Bần chín còn được dùng làm nước giải khát. Lấy trái bần chín dầm nát hoặc ép lấy nước thêm đường, đá vào là có ly nước giải khát độc đáo, nhất là trong những ngày hè nóng bức.
Không chỉ trong bữa ăn, thức uống, bần còn được dùng để làm một số đồ dùng trong gia đình như rễ bần (còn gọi là cật bần) được dùng làm nút chai, nút bình thủy nước. Do đặc tính của bần là hút nước, khi làm nắp đã được phơi khô, đến khi dùng đậy các loại chai, bình, cật bần nở ra vì vậy nắp đậy rất chắc, nhất là đối với chai đựng rượu, nắp cật bần là chắc chắn nhất, không sợ bay hơi vì nắp có tác dụng giữ hơi rất tốt. Đối với bình thủy, nắp cật bần có tác dụng giữ nhiệt giúp cho độ nóng trong bình giữ lâu hơn. Có lẽ vậy mà dân Nam bộ có thành ngữ “cật bần nhét nút chai”, người nông dân còn dùng cật bần để làm phao cho lưới đánh cá. Trong dân gian, bần được dùng để trị một số bệnh như lấy lá giã nhỏ, nghiền nát trộn thêm chút muối để đắp vết thương trị sưng, bong gân, tan máu bầm. Nước cốt từ trái bần lên men dùng làm thuốc cầm máu; nước ép từ trái bần vừa chín tới dùng để trị ho; nước ép từ hoa bần dùng để trị đái ra máu… Hình ảnh rặng bần xanh đưa đẩy ven sông, ven rạch cùng với vị chua ngọt của quả bần không bao giờ biến mất trong ký ức của mỗi người dân vùng sông nước
Tuổi thơ vương vấn bao ngày
Quả bần chua ngọt ngất ngây cõi lòng
Trong cuộc sống, bần còn góp phần không nhỏ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù bảo vệ xóm làng, bảo vệ quê hương, đất nước. Những rừng bần sum suê, rậm rạp như ngôi nhà lớn che chở cho bộ đội, là những cánh tay vây bủa quân thù. Bất kể ngày hay đêm, mưa gió hay bão lụt, bần vẫn đứng giữa trời dang rộng những cánh tay bảo vệ con người trước nanh vuốt kẻ thù. Bần hy sinh thân mình để đem lại cho quê hương một màu xanh hy vọng. Người dân Nam bộ đã quá quen thuộc với hình ảnh của cây bần sừng sững giữa vùng sông nước cũng như lũy tre, bến nước, ngôi nhà.
Từ “bần” nghe bùi ngùi, nó phảng phất cái nghèo khó, bần hàn, lam lũ của người Nam bộ thời khai hoang lập ấp chống chọi với thiên nhiên, thú dữ, bênh tật. Theo thời gian, cây bần trở thành hình tượng gợi nên sức ám ảnh lạ thường bởi đặc tính vốn có của nó. Cây bần nhanh chóng trở thành cách nói, nếp nghĩ của người dân Nam bộ. Người dân Nam bộ dành cho cây bần một tình cảm thân thiết
Mai sau thành vợ thành chồng
Đừng làm bần ớt hết nồng hết chua
Ưu ái hơn, người dân còn mượn cây bần để thổ lộ tâm tình của mình với nhiều cảm xúc, cung bậc khác nhau. Khi thì xót thương cho số phận của người phụ nữ
Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tấp vào đâu?
Hình ảnh "Sóng dập gió dồi” thật đúng, thật hay vì vào mùa nước nổi bần chín rụng cứ lênh đênh theo dòng nước, trôi mãi mà không biết sẽ về đâu. Hay thể hiện sự nhớ thương, là mật hiệu tình yêu của những người đang yêu nhau, là điểm tựa cho tình yêu đôi lứa
- Chiều chiều xuống bến ba lần
Trông em không thấy thấy bần xơ rơ
- Lẽ đôi em chịu lẻ đôi
Hoa tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ
- Phụ mẫu đánh anh quật quà quật quại
Đem treo anh tại nhánh bần
Rủi đứt dây mà rớt xuống
Anh cũng lần mò kiếm em
Với sự liên tưởng phong phú, người dân Nam bộ đã thổi một luồng sinh khí cho cây bần, khơi gợi sức sống kỳ lạ, tạo nên cảm hứng thẫm mỹ cho người đọc. Khi màn đêm buông xuống, có dịp đi thuyền men theo bờ sông, kênh rạch, ta sẽ được chứng kiến một cảnh sắc tuyệt vời, hàng nghìn tia sáng lập lòe, chớp tắt di chuyển liên tục trên những tán cây bần. Đó là những con đom đóm. Khi đêm đến, nhất là những đêm trăng sáng, giữa hai rặng bần lũ đom đóm thắp đèn như mở hội hoa đăng, dòng sông dát bạc ngoằn ngoèo như mở ra một con đường lộng lẫy đi vào cõi thần tiên. Ai cũng biết bần là cây ký chủ của loài đom đóm. Giữa đêm đen, cả một vùng sáng như những ngọn đèn tí hon nhấp nháy khiến cho mọi người không khỏi thốt lên “đẹp quá, thật tuyệt vời…”. Trước cảnh thần tiên như vậy, chàng trai không tránh khỏi tâm trạng nhớ người yêu
- Bần gie đóm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên
- Bần gie đom đóm bu quanh
Lập lòe sáng tối, lòng anh nhớ nàng
Ngày nay cây bần vẫn còn chiếm một vị trí quan trọng trong tâm hồn của người dân Nam bộ. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, sự biến đổi của thiên nhiên, nhu cầu kinh tế thị trường và tác động của con người, cây bần vẫn sừng sững hiên ngang. Cây bần ngày nay không còn mang nghĩa bần hàn, nghèo khó nữa mà bần trở thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người một cách độc đáo và hữu hiệu. Nhiều nông dân đã giàu lên nhờ biết khai thác mặt mạnh của cây bần. Bột bần, mứt bần… là thương hiệu có mặt không chỉ trong nước mà cả ngoài nước. Có thể nói sự hiện hữu của cây bần trong đời sống đã góp phần làm đẹp thêm những giá trị đặc sắc của vùng văn hóa sông nước Nam bộ.
Thạch Sene
.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét