Càng ngày, dãy phòng trọ ở đây càng
đông người đến thuê, đa số là dân lao động. Con hẻm nhỏ thó, lọt thỏm giữa vũng
màu tối kịt. Khúc cầu thang quanh co, bậc thang lộn xộn như người mặc quần ống
cao, ống thấp, vài người đi qua không để ý, ngã chổng chơ. Mỗi người ở đây đều
tự trang bị cho mình một chiếc đèn pin. Hôm nọ có con bé mới vô ở, chưa kịp chuẩn
bị đèn đóm, bị một đám con trai loai choai, lợi dụng bóng tối sờ mó loạn xà bần.
Nó chửi ầm ĩ, đám nọ đổ đám kia, cuối cùng chẳng thằng nào chịu nhận.
Dân trọ ở đây khá phức tạp, người tứ
phương đổ về, có khi trong cùng một phòng mà nghe giọng nói ba bốn miền, chõi
nhau chan chát. Ở trên gác cao, bà chủ
nhồi nhét gần chục người. Tất cả đều đàn ông, những buổi trưa chủ nhật, trời
nóng hầm hập, từng ấy con người nhẫy nhụa mồ hôi. Ban ngày người đi làm, kẻ đi
học chẳng mấy khi có dịp chuyện trò, vì vậy buổi tối chính là thời điểm thích hợp
nhất để họ “trà dư tửu hậu”. Trong phòng đó, Khiết luôn là đề tài để lũ bạn ở
chung châm chọc. Người gã dài nghều nghễu, da đen nhẻm, tóc dài chấm gáy, không
ra vẻ lãng tử mà nó lù xù như đống rơm gà bới. Nhưng tất cả những đặc điểm đó
chưa hẳn là nguyên nhân của những câu chuyện. Gã được cả phòng gọi là “kiết”
thay cho cái tên cúng cơm Khiết. Gã bị mọi người cô lập hoàn toàn. Gã ăn một
mình, ngủ cũng một mình và đi làm cũng một mình. Thi thoảng mọi người xung
quanh mới thấy môi gã mấp máy, cổ họng rò rè những âm thanh choi chói đến khó
chịu.
Sáng nào người ta cũng thấy gã
dậy sớm, lúi húi chợ búa, cơm nước. Gã chẳng bao giờ ra tiệm ăn. Bữa cơm chẳng
có gì ngoài bát “canh đại dưong” lỏng bỏng, vài con cá khô không khốc, mốc meo.
Gã hà tiện từng li từng tí, từ cái ăn cho đến chỗ ở. Ban đêm trong phòng trọ
nóng bừng bừng, hai cái quạt quay phà phà mà ai nấy ướt sũng mồ hôi. Gã thu hẹp
người vào một góc phòng, tránh luồng gió từ chiếc quạt. Gã làm vậy đơn giản chỉ
bởi một lí do: đỡ khoản tiền điện. Trong phòng mỗi lần chia chác tiền điện, gã
luôn là người ít nhất. Và chẳng ai bắt bẻ được. Nhìn những chiếc móc phơi và
đám quần áo của gã còn thảm hại hơn. Chúng không sạm màu, gãy nham nhở thì cũng
cong vòng vèo. Gã cẩn thận cột, nối, dán từng khúc, cố sao cho quần áo treo
tòng teng được ở trên đó.
Dạo gần đây, giá cả lên vòn vọt, vài người làm
công nhân không trụ nổi ở cái đất Sài Gòn đắt đỏ, họ lặng lẽ về quê. Khiết
trông càng thê thảm hơn. Người gã lòng khòng như được chắp nối lại từ những
nhánh cây khô khẳng khiu. Lương công nhân kỹ thuật của gã mỗi tháng ngót nghét
3 triệu, vậy mà gã vẫn sống rất kham khổ. Họ bảo gã keo kiết, giữ tiền khư khư
khi chết có mang theo được đâu. Gã có vẻ dửng dưng với mọi lời nói bóng gió, mỉa
mai.
Chiều nay, gã ngồi thẫn thờ trên
lan can sân thượng, bộ mặt ủ ê như nồi cháo khê. Thi thoảng có cơn gió vội vã tạt
qua gã rồi vèo đi mất, bỏ lại khuôn mặt gồ ghề xương, chằng chịt gân xanh những
sợi tóc rũ rượi. Đám thanh niên cùng phòng, ngồi nhậu lai rai ngay đó, cười nói
lao xao nhưng chẳng ai buồn liếc gã một cái. Cô sinh viên năm nhất, cùng chung
dãy trọ, nhìn gã đầy vẻ thương hại. Cái vóc người gầy quặt quẹo cùng giọng nói
lào khào của gã khiến cô có cảm giác như những nhân vật đói khổ trong từng
trang sách ngày xưa đang rục rịch sống lại ngay trước mắt cô. Chẳng biết có phải
vì đa cảm quá hay không mà chỉ có cô, người duy nhất trong dãy trọ này để ý và
quan tâm đến gã. Mỗi lần đến đây phơi quần áo, nhìn gã, cô bắt gặp một nỗi buồn
rầu u uẩn trong từng đồng tử mắt. Mỗi cái mỉm cười gượng gạo của gã, cô như
trông thấy những giọt nước rân rân đang tuột khỏi hai khóe mắt khô khan. Khác với
mọi khi, hôm nay gã không nhìn về phía cô, hai mắt gã thả giữa vùng trời bao
la, trên khuôn mặt xanh xao những nỗi lo. Bỗng một tên trong đám nhậu gần đó, lấy
giọng ngâm nghê câu thơ chế đầy ác ý: “Sống trên đời không ăn miếng thịt chó,
chết xuống rồi không có mà ăn”. Thằng gần bên lại bồi thêm: “Ai mua kẹo keo, có
ai mua kẹo keo, dừng chân ghé quán em đây...”. Cả bọn hùa theo, cười sằng sặc,
nước mũi, nước dãi tứa cả ra. Gã biết lũ người này đang ám chỉ mình. Gã lủi thủi
đi xuống phòng, mặt gã đượm đỏ như có lửa cháy phừng phực.
Hôm sau mới sáng sớm, người ta đã
nghe tiếng bà chủ nhà chửi léo nhéo, tiếng đồ đạc rớt bồm bộp dưới chân cầu
thang. Cô sinh viên mở cửa phòng, một quang cảnh bừa bộn bày ra trước mắt cô:
đám quần áo nhàu nhò, vãi tung tóe, mớ móc áo “tàn tật” bày binh bố trận khắp
đường đi. Bà chủ trọ, béo phục phịch, đứng trên gác chống nạnh, hai hàm răng
đan vào nhau chặt cứng. Vừa nghe thấy tiếng bước chân loẹt xoẹt của Khiết, bà rống
lên:
- Cút khỏi nhà tao ngay.
Cả hai tháng trời mày không đóng một cắc nào. Thử hỏi đây xem, có ai như mày
không? Tao cho thuê phòng trọ chứ đâu phải làm từ thiện...
Gã nín
thinh, mím chặt hai môi, lom khom lượm lại đồ đạc. Gã vo quần áo thành từng cục,
cuộn tròn vào chiếc ba lô bạc phếch, rách nham nhở. Mọi người trong dãy trọ hôm
ấy đều đổ xô ra cửa, nhòm gã lom lom như một động vật lạ. Lúc này, trước mắt
gã, mọi thứ sắp nhòa đi, hai tai ù đặc, gã chẳng còn nghe được thứ gì rõ ràng nữa.
Một sức mạnh vô hình nào đó đang ghì đôi vai khắc khổ của gã rạp xuống thấp. Gã
cố nhướn người thẳng lên, ưỡn vòng ngực lép kẹp trong sự gượng gạo. Gã bước đi
liêu xiêu, rúm ró như kẻ mang trọng tội. Gã ước gì gã có thể trở nên vô hình để
gần trăm con mắt kia thôi không nhìn xâm xoi và hàng chục cái miệng kia thôi
không ra rả bàn tán. Và gã cũng ước gì, trong đám đông lộn xộn ấy không có cô
sinh viên gã đã thương thầm.
Cái hoàn cảnh bi đát của kẻ sống
nội tâm như gã bị lột trần đau đớn trước mắt mọi người. Gã nhục, buồn tủi, xấu
hổ và cả căm giận. Tất cả mớ cảm xúc hỗn độn ấy chèn ép lồng ngực gã, rút cạn
ôxi trong phổi gã. Gã tưởng như gã sẽ ngã gục ở một góc đường nào đó trong tâm
trạng chán nản và buồn thảm đến tận cùng. Nhưng không. Gã vẫn đi. Đi thẳng vào
giữa dòng người đang nhộn nhạo cả lên.
Trưa Sài Gòn, nắng, khói xe, tiếng ồn,
lồng lộn vào nhau thành từng sợi dài dằng dặc, nhét vào tai mỗi người đi đường
một ít bực bội, cáu gắt. Trong bến, chiếc xe đò lăn bánh sớm, kéo theo con người
khốn khổ, luôn tự thu hẹp mình trong một khoảng không chật hẹp của sự mặc cảm,
tự ti. Ngôi nhà lá xác xơ ở quê từ từ hiện ra, đầu gã đã ong ong, những suy
nghĩ mung lung nhanh chóng vỡ vụn ra thành trăm mảnh. Và trong tận cùng của cay
cực, cái dáng mỏng tanh, xanh xám của người cha bệnh tật đang lăn lộn trong cơn
ho rũ riệt. Cảnh quay vừa dừng lại ở đó rồi ngay lập tức lại mở ra trước mắt gã
những con suối gập ghềnh, mấp mô ổ gà, ổ voi và loi nhoi đầy những chiếc gai nhọn.
Người mẹ hì hục vác từng bao cỏ nặng trình trịch, mồ hôi nhòe nhoẹt khắp mặt.
Những bữa ăn thiếu chất cộng với công việc nặng nhọc đã hút dần sức lực của bà.
Nước mắt gã ứa ra, lăn dài xuống cánh mũi. Gã lấy vội chiếc khẩu trang đeo vào.
Tự nhiên gã thấy sợ những cái nhìn chung quanh, họ thương cảm thì ít mà tọc mạch,
xoi mói thì nhiều.
Gã “kiết” đi được vài ngày, cả
phòng trọ làm buổi tiệc liên hoan coi như đã tống khứ được kẻ “xấu tính, dị hợm”
ra khỏi tập thể. Đôi khi người ta chỉ chấp nhận những cái gì đó chung chung, ná
ná nhau và ghét sự khác biệt, kể cả tính cách con người cũng không ngoại lệ. Cả
bọn nâng li, cười nói khề khà, câu chuyện của họ vẫn xoay quanh chủ đề Khiết
nhưng có phần chuyển sang hướng hài hước chứ không kịch liệt và gay gắt như trước.
Buổi chiều chủ nhật đã trôi đi, qua những li bia phập phồng bọt trắng. Khi cả
phòng thức dậy đi làm, một tên trong nhóm vẫn còn ngủ say sưa mặc cho đồng bọn
đấm đá huỳnh huỵch. Chỉ đến khi làn hơi bia cuối cùng bốc khỏi người, hắn mời lồm
cồm ngồi dậy. Hắn ngáp dài mệt mỏi, giữ thói quen cũ, hắn tìm gói thuốc lá. Lục
tung đống chăn mền bùng nhùng, đống quần áo cáu bẩn và mớ đồ đạc linh tinh, hắn
vẫn không thấy gói thuốc lá đâu cả. Cau có, hắn kéo tuột chiếc ba lô cũ mèm
quăng vào một góc phòng cho hả cơn giận. Một cuốn sổ nhỏ xinh xắn được bao bọc
kỹ càng, sạch sẽ, đập vào mắt hắn sự tò mò. Mở đầu cuốn sổ là dòng chữ ngay ngắn,
tròn trịa “những ngày buồn”. Cứ thế hắn cắm cúi đọc mải miết cho đến trang cuối
cùng. Cuốn sổ không đơn thuần là những lời độc thoại nội tâm, nó như một câu
chuyện buồn. Hắn không thể tưởng tượng được gã keo kiệt lại có hoàn cảnh khốn
khổ đến vậy. Nhưng có bao giờ hắn nghe gã than phiền hay kể lể dù chỉ là nửa
câu đâu? Mà cũng có bao giờ cả phòng này lắng nghe gã nói đâu. Khi mọi người đã
có sẵn ác cảm, gã chưa kịp mở lời, ai nấy đều quay đi. Hắn nhớ lại có bữa nào
đó lâu rồi, gã bị bệnh nằm liệt một chỗ, gã rên hù hụ, thở khò khè nhưng chẳng
thằng nào trong phòng hỏi han lấy một câu. Bà chủ nhà sợ gã chết thì xúi quẩy
nên giục đám thanh niên lực lưỡng rinh gã vào trạm tế gần đó. Rồi hình như là trước hôm gã bị đuổi
thì phải, gã cứ chàng ràng trước mặt hắn. Gã bẻ các ngón tay kêu rôm rốp, miệng
lắp bắp câu gì đó... Hay gã muốn mượn tiền? Hắn nằm miên man suy nghĩ và nhớ lại
mọi thứ. Hắn tưởng tưởng đến cảnh ép xác chịu đựng đói khổ và câm lặng chịu sự
ghẻ lạnh từ mọi người của Khiết, chỉ vì sự bệnh tật, nghèo khó của cha mẹ, chỉ
vì bản thân sống khép kín trong mặc cảm. “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà một cảnh”,
có người sống cởi mở, có người lại sống khép nép. “Có lẽ gã không xấu mà tại vì
ta không hợp”. Hắn nghĩ thầm như vậy. Bất
giác hắn thấy lòng buồn tênh. “Ừa! Không xấu. Phải chi ta nghĩ được sớm như vậy”.
Hắn thở dài ngao ngán. Tự nhiên hắn thấy nhớ cái dáng gù gù của “gã keo kiết” đến
lạ.
N.N (TP. HCM)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét