TÀ DƯƠNG - Truyện ngắn Trương Hồng Phúc
Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017
Ánh mặt trời dần dần khuất núi, để lại những tia nắng gắt gao, đỏ chói, quét lên trên nền trời những tia sáng rực lửa.
Chiều tà – đánh dấu sự chuyển biến của một ngày đã dần trôi qua, một nửa vòng quay của trái đất gần hết.
Chiều tà – đó là lúc người nông dân vác cuốc về nhà.
Chiều tà – là sự nhắc nhở những đàn chim lạc bầy phải tìm về tổ ấm của mình.
Chiều tà – là khoảnh khắc những chiếc thuyền đánh cá dần dần ra khơi.
Rọi mình vào một eo biển nhỏ, tôi nép mình như sợ hãi, tôi sợ màu đỏ lửa của hoàng hôn, sợ cái hắt chiếu của ánh sáng mặt nước nhấp nhô kia tạt vào mắt mình, và tôi sợ rằng, khi hoàng hôn xuống, khi bóng đêm về, những cơn thủy triều như giận dữ ngoài xa kia sẽ cuốn đi tất cả những gì trân quý của mình.
Ngày xưa ấy, tôi còn bé lắm, chỉ tầm 5 – 6 tuổi, vào một buổi chiều muộn, tôi lẽo đẽo theo má để tiễn đưa cha, anh hai và một số người hàng xóm ra khơi. Ai ai cũng hồ hởi cho một chuyến đi đầy thuận lợi và may mắn, rồi mai kia thuyền về họ sẽ mang về hàng tấn cá, tôm… cha tôi điềm đạm thắp nhang lên án rồi quay lại nói má tôi rằng:
- Cho nó về nghỉ đi, tối rồi, gió lắm, mùa bão rồi.
Quay lại phía tôi cha bảo:
- Con ở nhà ngoan nghen, ba đi bắt con đồi mồi về cho con.
Tôi hớn hở, mắt sáng rỡ, tự nhủ trong lòng, vậy là chỉ vài ngày nữa thôi tôi sẽ được thấy đồi mồi, có được đồi mồi. Chỉ mới đêm qua thôi, nằm trên tay ba, tôi chỉ lên những chấm tròn lấm tấm nâu như sao xa trên tay cha mà hỏi:
- Tay ba bị gì đây?
- Da ba đồi mồi, mi hỏi chi kĩ rứa? – Anh Hai lên tiếng.
Tôi im lặng nép vào lòng cha, áp lòng bàn tay xoa nhẹ lên làn da đồi mồi rám nắng của cha rồi thiếp đi lúc nào không biết. Tôi chỉ còn lờ mờ trong đầu là khi cha ẵm tôi vào giường, tôi như tỉnh giấc hỏi cha:
- Đồi mồi là gì hả cha?
Cha cười bảo:
- Con ngủ đi, mai cha đi biển bắt con đồi mồi về cho con.
Trong đầu tôi háo hức, chờ đợi để được thấy đồi mồi. Má dẫn tôi về cùng với mấy người đàn bà nữa trong xóm. Tôi ngoái đầu lại phía ba gào to:
- Ba nhớ mang con đồi mồi về cho con nha.
Cha đưa đôi tay lên miệng mở vòm tay vọng lại:
- Ba nhớ rồi, con trai.
Tôi ríu rít với lũ bạn trong nhóm trẻ, với cả bà Tư trông tụi tôi cho má và mấy cô trong xóm đi đan chài. Lúc đó tôi vui lắm, tôi chỉ biết rằng, khi cha về tôi sẽ có đồi mồi, sẽ được khoe với thằng Quậy, thằng Út, con Đẹt… tôi mừng lắm.
- Khi nào ba về hả má? – Tôi hỏi.
- Bình thường đi cả tháng, nay mới có hơn hai chục ngày. Răng mi mong ba mi rứa? – Má đếm ngón tay rồi quay lại hỏi tôi.
- Cha về sẽ mang đồi mồi cho con mà, má thấy con đồi mồi chưa?
Má không trả lời, nhoẻn miệng để lộ ra chiếc răng khểnh bên khóe má trái, tôi ôm lấy má, hôn lấy hôn để, hít hà vị mằn mặn, rin rít của cá và muối biển; ghịt vòng tay qua đầu, gỡ búi tóc to tròn phía sau gáy, tôi vuốt mái tóc dài, đen láy của má… đã hai ngày sấp nhỏ tụi tôi ở bên nhà bà Tư để cho mấy bà má đi đan chài, ướp mắm cá, bây giờ má về, tôi nhớ, tôi thương.
Đêm nào cũng vậy, cứ ngủ với tôi là má lại kể chuyện về biển, về những người ở biển và kể về ông thủy thần. Má từng bảo: ông thủy thần dữ dằn lắm, êm đềm là thế, phẳng lặng là thế nhưng khi ông tức lên thì cuốn hết cả nhà cửa, chài lưới, tàu bè và cả con người nữa; những người ở biển chúng tôi phải biết lấy lòng ông thủy thần, biết chiều ông, thì ông mới thương, ông cho con cá, con tôm, con cua, con mực… những người đàn ông phải biết quẩy lưới, quăng chài sao cho không đụng chạm vào ông, có vậy mới được yên ổn, bằng không, ngày nước lên hơn năm chục đợt triều thì người dân khỏi ra khơi. Khi phong ba, bão táp phải tự biết cách chống chọi chứ không được đổ lỗi cho ông thủy thần…
Tôi chợt nghĩ, sao không lên rừng hay vùng đất cao ở mà lại phải ở biển? Không dám hỏi má, tôi chỉ dám băn khoăn trong đầu.
Những ngày tiếp sau đó, trời chợt chuyển mưa dông, lốc xoáy bay cả mấy cái nóc nhà, trên dưới chục gia đình toàn là trẻ nhỏ và đàn bà phải nương náu vào nhau. Má và hai cô hàng xóm thay nhau leo lên mái nhà tôi, buộc neo, đằn đá, rồi nhà con Đẹt, thằng Tư qua nhà tôi tá túc. Bên bếp lửa hồng, má tôi sạm mặt, trên kẽ mắt chợt trực trào hai hàng nước mắt, tôi ghì chặt một bên tay má, lay lay.
- Má! Má!...
Quay lại nhìn tôi, má quẹt nước mắt rồi òa khóc. Cô Tám, cô Lao cũng thút thít theo. Lũ tôi không hiểu chuyện gì, cứ ngơ ngác. Đêm đó dông nặng, má cùng hai cô ghì chặt cột nhà, tụi tôi chui dưới gầm bàn ông chặt lấy nhau, con Đẹt khóc thét, thằng Tư run rẩy, tôi sợ đến quíu người, nhưng không khóc, tôi cắn chặt răng, mở to đôi mắt nhoi đầu ra nhìn má. Những tiếng thét ầm ầm trong đêm cứ thế vang lên.
Ầm!!! - Căn chòi bếp đã sập, tiếng lẻng xẻng của xoong nồi vang lên, tôi càng sợ hơn, ba đứa níu chặt vào nhau. Má tôi thét lớn:
- Gióng, không được ra ngoài.
Tôi ghìm hai đứa nhỏ (chỉ nhỏ hơn tôi 1 tuổi), nín thinh. Suốt đến sáng, mưa tạnh, dông lốc cũng qua đi. Mọi người trong xóm ùa ra dọn dẹp đống đổ nát, mắt người nào người nấy thâm quầng, sưng húp. Rồi mọi người đổ xô ra eo biển, trông ngóng, người khóc, người thút thít.
- Sống hay là chết? Trời ơi… - Chị Năm hét vang lên trời.
Mấy cơn sóng liên tiếp ập bờ, nhấp nhô theo từng con gió. Từ phía xa, rất xa, hình ảnh một cánh buồm nhô cao đang dần tiến vào bờ, nghiêng ngả, xoay vòng theo từng làn sóng.
- Về kìa, về kìa. – Bà Tư mừng rỡ la to.
Mọi người tấp nập chạy ra tận mép biển, sóng tung bọt trắng xóa ngập đến nửa thân người, chừng nửa giờ sau, khi ánh tà dương chấp chói tỏa vàng thân mình ngập trong nước biển thì chiếc thuyền cập bờ.
Chú Sáu, chú Bảy, chú Một, bác Ba… từng người một lết thết bước ra khỏi thuyền, nhún bước uể oải nhảy từ thành thuyền xuống, nằm sóng xoài ra cát. Các bà, các mẹ người hỏi, người la, người nhảy lên thuyền, lao xao…
- Đâu? Đâu? Còn ai nữa? Còn ai?...
Chợt dì Lao gào to:
- Trời ơi. Mất xác hết rồi…
Chú Sáu rệu rạ, nói trong nước mắt:
- Bão về, lốc ngập thuyền. Ghe của anh Tóm bị giật mất xoáy.
- Ba… ba… a… a… a… - Tôi thét lên trong vòng tay của má.
Má tôi như chết đứng, siết chặt lấy tôi, ức hực…
Tôi vụt chạy, phóng lên thuyền, len lỏi khắp các khe, các thùng rồi gục lại bên chum nước ngọt:
- Đồi mồi của con mà, ba hứa lèo, ba nói mang đồi mồi về cho con; con không cần đồi mồi, con cần tay ba, đồi mồi trên tay ba mà…
…
Cả anh Hai, cùng 14 người nữa cùng mất tích trong lần ấy, không khí tang thương lại chồng chất lên xóm biển chúng tôi. Má ngậm ngùi trong cay đắng nuôi tôi cho đến tận bây giờ. Nhà tôi đã chuyển lên chân núi, dưới thung lũng xà cừ, ở chung với ông bà ngoại. 20 năm trôi qua, tôi vẫn như điên cuồng khi sững mình trước biển, trước ánh hoàng hôn của một buổi chiều tà.
Cha tôi giờ ở nơi nao? Anh tôi giờ thế nào? Lòng tôi miên man, nặng trĩu. Má cũng đã đứng tuổi, mái tóc cũng dần điểm sương, nhưng trên đôi tay thô ráp nhọc nhằn, khuôn mặt nhô xương rám nắng cùng gió sương, chiếc lưng gầy gò thanh mảnh vẫn hằn lên một nỗi đau tột cùng – nỗi đau của sự mất mát, chia ly… Còn trong tôi, mỗi khi đứng trước biển đều thầm niệm rằng: ông thủy thần hãy trả ba và anh hai lại cho con, nếu có thể con là người chết thay… như vậy cũng mãn nguyện lắm rồi.
T.H.P
Tags:
TRUYỆN NGẮN,
Trương Hồng Phúc,
Văn
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét