Nhà văn Mang Viên Long
Dẫn
nhập
Phật học và văn học là hai lĩnh vực có những điểm tương
đồng và dị biệt. Những điểm tương
đồng có thể thấy là: cả hai đều hình thành trong thế giới của con người; cả hai đều hướng đến việc đưa
con người đạt đến cái hoàn mỹ, hoàn thiện và sự sáng suốt; cả hai đều triển khai trên ngôn từ… Những điểm dị biệt cũng không ít: nếu Phật học mang độ nén rất cao từ những -đúc kết- một lần -cho tất cả của Đức Phật thì văn học lại thường mải mê với những hiện tượng cá biệt, lạ thường (trong đời sống và trong ngôn từ); nếu Phật học đề cao trải nghiệm trực tiếp của từng cá nhân để thấu hiểu chính mình đạt đến trạng thái an định nội tâm, thì văn học lại đề cao trí tưởng tượng vô bờ bến cũng như
có tham vọng
ghi lại mọi sắc thái của đời, biểu hiện bằng các đủ các thủ pháp nghệ thuật để lay động con người; nếu Phật học cho rằng ngôn từ kinh sách chỉ như
là “ngón tay chỉ
mặt trăng” thường khi lời lẽ chữ viết làm sai lạc sự thật, thì văn học lại nghĩ rằng văn bản tồn tại như
chính nó, càng đa nghĩa càng có giá trị, càng đưa
con người vào mê cung, càng
kích thích sự
sáng tạo…
Từ khi nhân loại nhận được những lời chia sẻ của Đức Phật cho đến nay, biết bao người đã kế tục và diễn giải những lời ấy thành kinh sách. Phật học ngưng
đọng và lan tỏa xuyên bao từ tầng tầng kinh sách. Có những bậc thức giả Đông -Tây đi vào thế giới kinh sách này, làu
thông lịch sử, tư
tưởng, quan niệm, nhân vật… của Phật giáo; cũng có những người chỉ hồn nhiên lạy và niệm Phật sống giữ lòng lành theo các
giới. Đạo Phật bao dung nên có nhiều con đường để đến với Phật, nhưng
dù là con đường
nào thì cuối
cùng đích đến
vẫn là làm sao để mỗi người thấy được Phật tính trong ta.
Vậy Phật tính là gì? Giữa Phật học và Văn học là hai khung trời cách biệt như
đã nói trên, làm sao có thể
tìm thấy được Phật tính? Bài viết này xuyên qua những trang viết của Mang Viên Long để nhận ra diễn trình tư
tưởng một nhà văn đi qua bao
thử thách của số phận và bao bão dông của lịch sử, để rồi tìm thấy chính mình nhẹ nhõm ở cuối đời trong tâm thức tự do. Những tra vấn lớn như
trên và những
câu hỏi nhỏ hơn
sẽ được trả lời lồng ghép trong phân
tích văn bản:
Biểu hiện của Phật tính trong trang viết Mang Viên Long? Nhờ đâu mà Phật tính phát sinh? Những nghịch lý giữa Phật học và Văn học được Mang Viên Long hóa
giải thế nào?
Phật
tính, những
điều
tưởng chừng như
nghịch
lý
Trong
hình dung thông thường của nhiều người không phải là Phật tử, hay là Phật tử chưa
thấm nhuần Phật pháp, thì đạo Phật là một tôn giáo mang đậm chất bi quan: câu nói “đời là bể khổ” và cách sống chay tịnh, khước từ các thú vui vật chất dường như
là ám ảnh lớn nhất trong tâm thức nhiều người về đạo Phật. Trong thời gian hai năm giảng dạy tại Seoul Hàn Quốc, tôi nhiều lần được các tín hữu Tin lành nhiệt tình thuyết phục vào nhà thờ nghe giảng. Một vị giáo sư,
dù biết tôi là Phật tử, vẫn mạnh dạn phân tích cho tôi
thấy sự hơn
kém nhau giữa
hai tôn giáo: “Cô thấy
không, tất cả các nước tin vào Chúa đều trở nên giàu có, còn các
nước tin vào Phật đều nghèo”. Dùng một thành công hữu hình để phủ định một thành công vô hình,
quả thật cách nói của ông rất ấn tượng, và có thể làm lay động nhiều người, nhất là những người đang hăm hở trên con đường kiếm tiền, kiếm danh cho chính mình
nhằm thụ hưởng cao nhất mọi thú vui vật chất, hay những người tuyên bố là quyết tâm làm giàu để phát triển đất nước bằng mọi giá, hôm nay.
Tự ngàn xưa,
Đức Phật, từ một trực giác khác thường của một trái tim nhạy cảm và cái nhìn xuyên thấu các lớp vỏ hiện tượng của đời sống, đã thoáng nhận ra cái bất ổn của kiếp người và rồi Người từ bỏ nếp đời nhung lụa quen thuộc để lên đường kiếm tìm Bến Giác.
Cái
thoáng thấy
thuở ban đầu ấy, qua những năm tháng trải nghiệm giữa chúng sinh và một mình suy tưởng, trầm tư,
đã hiện hình rõ rệt trong tâm thức của Người. Tương
truyền, sau khi giác ngộ, điều đầu tiên Đức Phật chia sẻ với năm người đồng đạo của mình ở vườn Lộc Uyển là ý niệm về Sự Khổ, chính là những gì tập trung thành Tứ
Diệu
Đế mà chúng ta biết hôm nay. Trong khi
quan sát cõi người và lắng nghe lòng mình, Đức Phật lần lượt gọi tên thực trạng của đời người (Khổ
đế
- Dukkha), cội nguồn của thực trạng (Tập
đế - Samudaya),
mục tiêu thoát khỏi thực trạng (Diệt
đế - Nirodha)
và phương
pháp vượt thoát thực trạng (Đạo
đế - Magga).
Bắt đầu bằng con đường đối mặt với sự thật, Phật giáo từ đây sẽ luôn luôn là một hành trình nhận thức và hành trình vượt thoát.
Từ trải nghiệm nhận thức và trải nghiệm vượt thoát của chính mình, Đức Phật có một niềm tin mãnh liệt là tất cả chúng sinh, ai cũng
có thể đi theo con đường của Người để đạt đến chân hạnh phúc. Người nói rõ: Phật tính chẳng phải là đặc quyền của riêng ai, Phật tính có sẵn trong mỗi chúng ta. Ý thức về cái có sẵn ấy, lắng nghe, nuôi dưỡng và tưới tắm nó thường xuyên, chúng ta sẽ tỉnh thức và đạt đến sự bình an.
Nhìn
thấy cái chướng ngại lớn nhất trong căn tính con
người, nhưng
lại tin rằng con người luôn có khả năng vượt thoát đạt đến sự tỉnh thức, như
vậy Phật giáo là bi quan hay
lạc quan? Không vướng vào cái nhìn nhị nguyên, đây là một thái độ khoa học đặc biệt của phương
Đông mà lâu nay nó đã được gọi tên là minh triết. Có thể nói, từ rất sớm, tư
thế của con người cá nhân đã được khẳng định cùng với Đức Phật, điều mà phương
Tây mới có được từ sau cuộc cách mạng tư
sản Pháp 1789. Và con
người ấy dám nhìn sâu vào
tâm thức của mình, đối mặt với nguyên nhân hiện trạng bi đát của kiếp người, điều mà mãi đến cuối thế kỷ 19 Sigmund Freud mới nói ra trong phân
tâm học, đã từng làm phương
Tây sửng sốt. Nhưng
nếu những thành tựu về giải phóng cá nhân và hiểu biết về đáy sâu vô thức của con người của phương
Tây cuối cùng chỉ đưa
đến một tình trạng loay hoay trong xung
đột, cô đơn,
hoài nghi (mà tinh thần
của kỷ nguyên hậu hiện đại là biểu hiện rõ nét nhất), thì Phật giáo lại chỉ cho từng người chúng ta con đường để mang lại sự bình an và tự do nội tâm trong tương
thông thấu hiểu và tin yêu con người.
Biểu
hiện
tính Phật
trong trang viết Mang Viên Long
Mang
Viên Long sinh ra và lớn
lên ở An Nhơn,
Bình Định trong một thời điểm lịch sử nóng bỏng của dân tộc (1944). Bước vào làng văn từ tuổi đôi mươi,
đến nay ông đã có một đời văn hơn
nửa thế kỷ (2)với hàng trăm truyện ngắn cùng tiểu thuyết, thơ
ca, tạp bút, phê bình, tiểu luận, công bố trên các tạp chí trước và sau 1975, đã tập hợp in thành 32 cuốn sách.
Những ai đọc kỹ Mang Viên Long, sẽ thấy, dù viết nhiều, Mang Viên Long
không thuộc
dạng nhà văn chuyên
nghiệp, nghĩa là những người viết kỹ thuật, sống bằng nghề. Ông viết như
một thiên hướng bẩm sinh và như
một nhu cầu của người kinh qua cuộc đời, nếm trải quá nhiều đau đớn. Viết văn với ông, phần lớn là bày tỏ, là giải tỏa, là chia sẻ. Bóng dáng của nhà văn, vì vậy, có mặt trên hầu hết các trang viết của ông, nhẹ thì như
một cái nhìn, rõ hơn
là nhân vật
cùng có mặt
với những nhân vật khác, đậm nhất là những trang tự thuật hay hồi ký. Chất tưởng tượng, hư
cấu và sự sắp xếp để tạo nên kịch tính cho câu chuyện ít được Mang Viên Long đẩy lên đến mức tối đa để tạo thành một thế giới huyễn tưởng, hoặc một thế giới phô diễn ngôn từ. Không, văn chương
Mang Viên Long phả
ra cái nhịp
đập tự nhiên của tâm tình mình, cũng
như
phác vẽ lại những mảnh đời trôi dạt trong bão dông lịch sử mà thường khi ông nhìn thấy. Những tên sách Trên đỉnh
sa mù, Mùa thu trống
trải,
Có những
mùa trăng, Thân như ngọn cỏ, Như
giọt
sương…mang
lại cho chúng ta một cảm giác về cái nhẹ và sự
tương thông của con người
với
tự
nhiên. Đó là thời kỳ trước 1975, dù không ít
khó khăn, bất
hạnh, Mang Viên Long đã
học hành và được làm việc với khả năng chuyên môn vốn có của người trí thức. Đoạn đời dài nhất, gần như
bị dạt ra ngoài lề, của nhà giáo, nhà văn
Mang Viên Long là sau 1975. Nhiều
biến cố chung, riêng dữ dội quá, tưởng chừng ông đã bị nhấn chìm trong tuyệt vọng, nhưng
không, 28 năm sau, năm 2003, ông có sách trở lại (tập truyện Biển của hai người)
và từ đó, như
một hồi sinh mạnh mẽ, Mang Viên Long viết ồ ạt, xuất bản đều đặn được 23 cuốn với nhiều thể loại.
Đọc kỹ Mang Viên Long, sẽ thấy Phật tính trong trang viết của ông biểu hiện thành hai dạng: một dạng tiềm ẩn, bàng bạc qua cảm hứng của một nhà văn và một dạng hiển lộ, diễn giải trực tiếp qua tấm lòng thành tín của một Phật tử. Hai dạng này cũng nằm ở hai giai đoạn: trước và sau khi cả nhà ông quy y, từ biến cố khó giải thích của gia đình riêng.
Những trang viết thời trẻ và trước khi quy y (với Pháp danh Sơn
Thành rồi Huệ Thành) của Mang Viên Long đã
có bóng dáng của
Phật, với những từ ngữ tự nhiên hay một niềm tin dung dị. Nhiều lần ngôi chùa xuất hiện trong truyện như
một nơi
nương
tựa cho những nhân vật mà cuộc đời gặp quá nhiều nỗi oan khiên (“Đi tìm
kẻ mất tích”, 1971, trong Phố
người).
Những nhân vật mang bóng dáng nhà
văn thường khước từ sự thô bạo hay cay đắng: “Anh muốn tất cả đôi mắt nhìn nhau với đôi mắt nhìn của một con chim hiền từ” (“Vội vàng”, 5-1972, trong Tuyển
tập
truyện
ngắn
1).
Giữa vỉa hè Sài Gòn, lời nói buột ra bất ngờ một nhân vật nữ bán cà phê “Cuộc đời cũng chỉ là nơi
tạm trú thôi”, làm
Vĩnh, nhân vật
nam vừa mới ra trại cải tạo, bàng hoàng: “Cô
gái trẻ ấy, cô hàng café lề đường, sao lại nghĩ ra được điều sâu kín ấy nhỉ?” (“Những kẻ tạm trú”, 1999, trong Tuyển
tập
truyện
ngắn
1,
tr. 213,). Một
Khang, qua những
biến cố thời cuộc, vợ con ly tán qua xứ người, ở lại quê nhà dựng lều trồng trọt “đêm đêm nằm trên chiếc chõng tre bên hiên
nhà tham tán kinh sách, giữ gìn ba thời công phu nghiêm mật (…) anh cứ điềm nhiên nhìn mọi sự đến đi qua đời mình từng ngày khó nhọc như
cái nhìn của
một người khách lạ” (“Căn lều của người anh họ”, 2010, trong Tuyển
tập
truyện
ngắn
1,
tr.262).
Trước 1975, nhiều truyện ngắn của Mang Viên Long in đậm dấu vết của chiến tranh, sau 1975 là những chia cắt, xáo trộn trong hòa bình. Cái
chết không hề thiếu trong văn chương
ông, cũng như những điều tàn nhẫn phi lý do con người đặt ra để làm khổ nhau (“Chim bay về đâu”, 1985, Tuyển
tập
truyện
ngắn
1).
Những gặp gỡ, những mối giao tình trong
không gian miền
Trung, đặc biệt là Quy Nhơn,
Tuy Hòa, hiện
lên nhiều lần với nhân vật trở về và ra đi gần như
không quyết
định được gì cho cuộc sống của mình, không neo một nơi
nào rõ rệt. Ngoại cảnh như
sóng dữ, có thể cuốn trôi mọi cái, con người có thể làm gì? Một lởi nhắc lớn của Đại sư
Narada trầm
vang trong ngôi nhà văn chương Mang Viên
Long: “Có điều
ta luôn có thể
làm được, đó là giữ Tâm bình thản như
đất” (“Cũng chỉ là giấc mơ”,
2012, trong Tuyển tập truyện ngắn 2).
Từ tác phẩm của Mang Viên Long, ta
nhận ra một sinh hoạt đặc biệt chỉ có một thời xa, đó là viết thư
cho nhau, như một nhu cầu. Thư
giữa những người yêu nhau, thư
cho bạn văn. Và tình cảm đến từ đó, rất tự nhiên, tin cậy, hoàn toàn không mưu
cầu, không vị lợi. Có lẽ những tương
giao thế này đã nâng đỡ bao người, trong đó có Mang
Viên Long (“Tiên Thủy”, 1972, trong Tuyển
tập
truyện
ngắn
3,
“Người lưu
giữ bản thảo, 2010, trong Tuyển
tập
truyện
ngắn
2).
Càng
về sau, trong nhiều trang viết bề bộn của mình, đời sống và Phật pháp xen kẽ nhau cùng hiển lộ rõ rành trên câu chữ. Không gian quen thuộc trong truyện ngắn Mang Viên Long là
quê nhà, tình huống
thường gặp là chuyến trở về, thăm viếng nhau và trò chuyện. Có những nhân vật người già sống âm thầm sau bao biến cố, cô đơn
trong sự bạc bẽo của những đứa con, đã tìm đến sự bằng an bằng Phật pháp (“Một đêm ở quê nhà”, 2004, trong
Tuyển
tập
truyện
ngắn,
2).
Có những tình bạn biết nhau tấm lòng nhờ thời khốn khó (“Về lại chốn xưa”,
2008, trong Tuyển tập truyện ngắn, 2).
Có những yêu thương
“dẫu lìa ngó ý còn vương
tơ
lòng”, không đi đến
cùng nhưng
vẫn có khả năng bù đắp (“Cảm ơn
nhau”, 2010, trong Tuyển tập truyện ngắn, 2).
Những phận đời cô lẻ, sống ơ
hờ giữa thiên hạ, láng giềng và chết đi nhẹ nhàng như
cây cỏ. Sự có mặt tự nhiên của các ngôi chùa và
các sư
thầy trong những tình huống cần giúp đỡ (“Lão Tư
Kéo”, trong Tuyển tập truyện ngắn, 2).
Gần tới tuổi 70, một trong những cảm hứng lớn của Mang Viên Long là kể về con đường ông đến với Phật, nhiều trang sách, ông gần như
dành trọn hứng thú chữ nghĩa cho việc chia sẻ về Phật pháp. Như những giọt sương
(1,2,3,
2012, 2013, 2014) Tôi đến với Phật
(Tiểu luận và tạp bút, 2014) nói đến “duyên ngẫu nhiên mầu nhiệm”, Như áng mây trôi (hồi ký, 2015) tái hiện hành trình làm người với duyên tu tập và duyên chữ nghĩa; Đôi bờ
nhân duyên (2018) là truyện dài được xây dựng trên cảm hứng về Ni sư
Thích Nữ Trí Hải (1938-2003) và rất nhiều bài đăng rải rác xen kẽ trong những tập sách khác. Những trang sách này có
thể cung cấp cho chúng ta những dữ liệu cụ thể về hoạt động nhà văn Phật tử Huệ Thành- Mang Viên
Long, đặc biệt là giúp ta cắt nghĩa lý do, điều kiện nào nhà văn đến với Phật. Có thể nói, Phật tính nơi
những trang viết này trỗi lên trên bình diện ý thức, với những diễn giải trực tiếp về tư
tưởng nhà Phật.
Có
một sự giống và khác nhau nào
giữa trang viết Mang Viên Long trước và sau 1975? Vẫn là cái nhẹ
ấy
nhưng
xưa
là cái nhẹ
bay bay trữ
tình, mơ
mộng, nay là cái nhẹ giản dị, dễ dàng của sự khiêm cung buông bỏ, trong cả hình ảnh, câu chuyện và chất văn. Những nhan đề vẫn theo phong cách cũ: Như những giọt sương
(1,2,3), Như
áng mây trôi, Cũng
chỉ
là giấc
mơ,
Một
chữ
tình để
lại,
Đôi bờ
nhân duyên…, bảng lảng chất vô thường thu nhận được từ nhân duyên Phật pháp cũng như
từ suối nguồn vũ trụ.
Cái
nhẹ ấy trong trang viết phải chăng đã hé lộ ít nhiều một tâm hồn không đắm đuối quá với cõi đời để có thể nảy sinh trong mình những trạng thái tham, sân, si
như
lẽ thường của con người, đặc biệt là người nghệ sĩ?
Ngay
từ thời trẻ, viết về chính nỗi đau hay về cái xấu, của mình hay của người, trang văn của Mang Viên Long thường điềm tĩnh. Ông không phê
phán mà thường
ghi nhận. Một bút pháp nhẹ, ấm áp, tràn đầy lòng xót thương
cùng với lòng biết ơn.
Mang Viên Long xót thương ai? Ông xót thương
người và xót thương
mình. Lạ thay, lủi thủi trong mồ côi, chật vật trong nghèo túng,
đau khổ trong những đối xử bất công, bất hạnh trong những tình huống gần như
phi lý, thế
mà cái mầm xanh yêu thương
vẫn náu mình nhẫn nhịn chờ ngày nở lộc, trổ hoa. Nói theo phân
tâm học Freud, có thể cho rằng trong Mang Viên
Long phần bản năng sống (eros) nhiều hơn,
nhưng
có lẽ chính xác là cái đức từ bi và nhẫn nhục, những dấu hiệu của Phật tính đã có nơi
ông từ thiên tính. Những nhân vật trong tác phẩm Mang Viên Long mang
nhiều đường nét ấy, họ là những người trẻ ít bị hút vào các thú vui
tầm thường, có nhu cầu tinh thần cao, thường tin ở lẽ đời tốt đẹp. Phố
người
(tập truyện, 1971) có nhiều truyện cho thấy các nhân vật của ông có một tương
giao đặc biệt với tự nhiên. “Một cõi đời riêng” (Phố người)
mở đầu bẳng những giòng văn đẹp tràn đầy
cây cỏ, đất trời: “Khắp nhìn xuống mặt sân cát còn mịn hơi
sương
phủ đều những cánh hoa sầu đông trắng nhụy tím thâm với nỗi ngạc nhiên nhẹ nhàng thích thú về một khám phá thêm cho
căn nhà cũ của
mình. Trong cơn gió sớm gây gây lạnh mùi thơm
hoa sầu đông sực nức tràn đầy khứu giác anh đến nỗi nó ám ảnh rồi quyến rũ anh, khiến anh nghĩ chỉ có buổi sáng này là buổi sáng bình yên, hạnh phúc nhất từ lúc anh trở về mở toang đôi cánh cửa nhện giăng bụi phủ mà anh đã bỏ đi bặt tăm mấy năm ròng” (tr.7).
Trăng xuất hiện nhiều trong văn Mang Viên
Long, như
một vẻ đẹp của bình an, trong trẻo, có mặt hằng tháng giữa trời, nhưng
vẫn trở thành cái ngạc nhiên: “Tối nay mặt trăng hiện ra thực kỳ lạ. Từ cửa sổ nhà Hiếu tôi đã trông thấy mặt trăng tròn, đầy, sáng trong, chếch trên ngọn sầu đông. Bầu trời quang đãng. Tôi
nhìn mặt trăng như
lâu ngày nhìn thấy
một thiếu nữ đẹp. Tôi đứng yên thực lâu ở cửa sổ, nhìn, lòng cảm thấy cũng mới mẻ như
trăng trong”. (“Bóng mây”, tr.5). Nhất là khi trăng thuộc về một không gian u huyền đặc biệt của Bình Định, đã làm thao thức bao người nghệ sĩ Việt (“Trăng sáng trong
thành Đồ Bàn”, 1972, Tuyển
tập
truyện
ngắn
2,
“Tiếp nối những mùa trăng tuổi thơ”,
1990, “Buổi
tối trước hiên nhà”…).
Một con người quẩn quanh trong không
gian xã hội,
chỉ đắm trong những vấn đề của con người, không thường xuyên có những cảm xúc về tự nhiên hẳn Phật tính trong họ sẽ ngủ yên và ngày càng mờ nhạt. Bởi tự nhiên, với cái đẹp thuần khiết cùng những quy luật âm thầm mà bí nhiệm của nó sẽ mang lại cho chúng ta rất nhiều những hiểu biết đích thực về sự sống.
Nhờ
đâu mà Phật
tính phát sinh?
Trước hết, có thể nói là Mang Viên
Long đi từng
bước vững chắc đến với Phật là nhờ những
trải
nghiệm
trực
tiếp
về
cái khổ.
Từ bé ông đã chứng kiến những mất mát và đổi dời ghê gớm trong gia đình và
xã hội. Ký ức tuổi thơ
ấy vĩnh viễn không phai mờ, tất cả đã trở thành chất liệu trong trang viết của ông. Khi ông còn là
bào thai 6 tháng trong bụng
mẹ: cái chết của cha là mất mát đầu tiên. Cuộc “đi bước nữa” của mẹ ông dẫn đến những xáo trộn gia đình và căn bệnh nan y của mẹ ông, đã bứt bà ra khỏi Mang Viên Long khi
ông 6 tuổi. Buổi tối tin dữ đến và những đứa trẻ chạy trong mưa
gió là một trải nghiệm bàng hoàng. Rồi đòn roi của người anh khắc nghiệt, cộc cằn. Rồi những ngày đi học đói rách đầy tủi hổ giữa bạn bè. Và có lẽ tận cùng nỗi khổ là cái ngơ
ngác không hiểu
vì sao người
phối ngẫu của mình lại trở thành xa lạ. Bên cạnh đó, cái khổ mà xã hội mang lại cũng không hề nhỏ. Bình Định khói lửa trong kháng chiến chống Pháp. Miền Nam 21 năm chiến tranh. Hòa bình, bị dạt ra ngoài lề xã hội, mưu
sinh bằng đủ thứ nghề. Có lẽ, những cái khổ từ xã hội nhiều người ở thế hệ ông cũng phải kinh qua, và khi ấy ông cũng đã là người ít nhiều từng trải, nên ông đón nhận chúng như
một lẽ đời biến dịch. Thấm thía cái khổ là một trong những điều kiện đầu tiên để thấu hiểu điều Phật dạy. Thuở ban sơ,
Mang Viên Long đón nhận
và thể hiện cái khổ trong văn chương
mà ít khi phân tích để
xác định nguồn cơn.
Về già, được đi vào kinh sách và
nương
nhờ cửa Phật, nhà văn hiểu được đầy đủ nên tự mình hóa giải và nhiệt thành quảng diễn những điều ông biết.
Nhưng
không phải ai đi qua cái khổ cũng có thể phát lộ Phật tính nơi
mình, mà lắm
khi ngược lại. Có những dẫn dắt nào đó ngoài chủ định của ta mang ta đến bến bờ lành, nhà Phật gọi là Duyên. Trong nhiều trang viết, Mang Viên Long đã
kể về các nhân duyên trong
đời mình với lòng biết ơn
chân thành.
Trước hết là người mẹ yêu.
Dù chỉ thoáng qua có 8 năm
trong đời ông, người mẹ ấy đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt. Người mẹ ấy đẹp và yếu đuối, đã có một bước đi lầm lạc với người chồng sau, nhưng
người mẹ ấy luôn có một niềm tin rõ rệt: hãy niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” khi lòng cảm thấy bất an. Niềm tin ấy đã được trao lại cho Mang Viên Long
như
chiếc bùa hộ mệnh, là hạt giống đầu tiên.
Rồi những
ngôi chùa. Có lẽ trong căn nhà thời tuổi nhỏ của ông, ánh sáng của Phật đã chiếu vào rất sớm, để có lời niệm Phật, để có những ngày mẹ con cùng đến chùa lễ bái. Ngôi chùa từ đó đã đi vào nhiều trang viết Mang Viên Long như
một nơi
chốn bảo bọc bình yên. Nhà chùa
gắn với hình ảnh mẹ; nhà chùa, nơi
trú ẩn thuở mồ côi bị đòn roi; nhà chùa, nơi
tá túc những
ngày lang bạt
vì gia đình bất
ổn; nhà chùa và những cuộc đàm đạo với những bậc chân tu lặng lẽ… Tôi tự hỏi, phải chăng “Ngôi chùa
trong văn học
Việt Nam”, là đề tài cần nghiên cứu?. Dù hiện nay không phải ngôi chùa nào cũng
thanh tịnh, như
chúng ta thử
hình dung nếu
đất nước mình thiếu những ngôi chùa?
Tịnh khí và linh khí của ngôi chùa không chỉ ở con người. Bình Định,
nơi
mà Mang Viên Long được sinh ra, phải chăng là mảnh đất đã mang đến nhiều năng lượng lành cho thế giới tâm linh?
Bằng
hữu
và đạo
hữu
đã có mặt trong trang viết của Mang Viên Long như
một niềm vui. Nhờ gắn với văn chương
và duyên may gặp
Phật mà ông được giao kết với nhiều người đồng điệu. Rất nhiều những trao gởi quý trong đời ông: kinh sách từ người chị của Y Uyên và đọc và chép kinh hằng đêm. Là chiếc tượng Phật Di Lặc bằng đá trắng nằm lặng lẽ trong Tòa Lãnh sự Mỹ một ngày tháng Tư
hỗn loạn. Là chiếc tượng Phật Thích ca bằng gỗ xin được trong một lần đi sửa khóa. Đọc Mang Viên Long, có
thể nhận ra là ông ít vướng mình vào thế giới đa màu nghệ sĩ mà lại ngả về các tương
giao nhẹ đạm của thiền môn: Thầy Giác Lượng, Thầy Thiện Đạo, Thầy Minh Tâm… đã đi vào
trang viết của ông, được ông gọi là những ân sư
với lòng tôn kính.
Nghịch cảnh
cũng “tạo duyên”, khi con người có tâm lành. Với những con người để lại đớn đau cho đời mình, Mang Viên
Long gọi là “Bồ Tát nghịch hạnh”: đó là người anh ruột cứng rắn, cộc cằn, mà sau này ông từng ra tay giúp đỡ, không hề oán giận; đó là người phối ngẫu bất ổn để lại cho ông một nỗi hoang mang lớn và những ngày lìa nhà đi
tìm trú xứ,
rồi cuối cùng hiểu ra được là tơ
duyên đã tận
mà không trách hờn.
Nhưng
cuối cùng cũng phải trở về với chủ
thể. “Phật tính có trong tất cả chúng ta”, nhưng
mỗi người phải tự đánh thức Phật tính cho mình. Mang
Viên Long đã đi tìm và đã thấy.
Đi qua cuộc
đời, ông nếm trải, nhẫn nhịn, chịu đựng mà sống đàng hoàng, tử tế. Không phản kháng, cay đắng và oán trách để tạo thêm nghiệp dữ trong văn chương
và trong đời
sống, Cuối cùng nơi
trang viết Mang Viên Long chỉ còn lại sự thương
xót, lòng tha thứ
và biết ơn
mà thôi.
Những
nghịch
lý giữa
Phật
học
và Văn học
được Mang Viên Long hóa giải thế nào?
Những ai yêu văn chương
thường nhận ra rằng sức hút của văn chương
đối với chúng ta trước hết là cái mỹ lệ, cái độc đáo của ngôn từ. Thời tuổi trẻ, Mang Viên Long xuất hiện bên cạnh những bạn văn khác và đã ghi
được dấu ấn nhất định nhờ bút pháp trộn lẫn chất trữ tình và chất hiện thực của ông. Nhân vật ở truyện Mang Viên Long đa dạng nhưng
không gian thường
là chốn quê nhà: Bình Định và Phú Yên. Có thể nói, ông viết về những điều trông thấy, và về đời sống bềnh bồng trôi giạt của chính mình. Trang
viết của ông nét thực khá nhiều. Thời cuộc, chiến tranh, ly tán, đói
nghèo, những
khát khao tinh thần
và tình cảm
của người trí thức trẻ đã in dấu nơi
ấy, có thể gợi cho người đọc lúc bấy giờ và hôm nay nhiều cảm xúc khác nhau.
Cái
cảm hứng đa sắc về đời thường ấy của nhà văn, trong những năm gần đây đã chuyển qua cái cảm hứng tinh tuyền về giáo lý của người Phật tử. Có thể nhận ra những thay đổi về cách viết. Đơn
giản và xác thực, thậm chí mộc mạc, phải chăng trang viết Mang Viên Long muốn hướng đến một tầng lớp khác đông đảo hơn,
cho tất cả những ai đến với Phật; hay là ông nhận ra rằng ngôn từ của nhà Phật trọng sự thuần phác, tự nhiên? Những tục lụy cũng dần dần thoáng qua như
là nhân tiện
nói về, chứ không say sưa
miêu tả để người ta mải mê với chúng.
Có
một điều cần phải thấy là, trong tình yêu
lớn này, Mang Viên Long
vẫn còn sôi nổi lắm. Ông viết nhiều hơn,
vội hơn,
đôi khi ít trầm
sâu. Có lẽ
ngoài sự thôi thúc của nội tâm, vẫn còn nhiều lý do khác nữa mà ta chưa
biết hết…
Dõi
theo hành trình văn chương của Mang Viên Long để tìm ra Phật tính, người viết bài này vừa ngạc nhiên về số lượng tác phẩm, vừa mừng vì khả năng sao lục và công bố lại gần như
toàn bộ những gì Mang Viên Long
đã viết, nhưng
khá bối rối vì cách trình bày sắp xếp trong từng tập, đặc biệt là bộ ba Tuyển
tập
truyện
ngắn:
hầu hết các truyện cuối trang viết đều có ghi thời điểm sáng tác hoặc công bố, nhưng
khi đưa
vào tuyển tập thì không theo trình
tự ấy. Lại tự hỏi: tác giả có phần sơ
suất hay là có chủ ý riêng?
Để kết thúc bài viết cũng khá rườm lời này, chúng tôi xin
dẫn lại ý kiến ngắn gọn, hàm súc mà cởi mở của Hòa thượng Thích Thiện Đạo, vị ân sư
đã từ lâu lặng lẽ dõi theo, ân cần giúp đỡ và hiểu rõ Mang Viên Long:
“…đường vào Phật pháp của Huệ Thành- Mang Viên
Long “vừa có nhiều túc duyên, nhưng
cũng rất bất chợt”, “Anh đã tiếp cận Phật pháp từ nhiều góc độ, nhiều cảm xúc của một nghệ sĩ giàu tình cảm. Tôi hy vọng có nhiều văn hữu, bạn Đạo cũng tiếp cận Phật pháp như
cách của anh: Rất gần gũi, tự nhiên, nhẹ nhàng và trong sáng”
(“Thư
chia sẻ của Hòa thượng ân sư
Thích Thiện
Đạo”, Tôi đến
với
Phật,
tr.7).
Sài
Gòn, 28-6-2018
N.T.T.X
Tác phẩm đã đọc
(Theo trình tự
thời gian xuất bản)
1. Mang
Viên Long, Phố người
(Tập truyện), NXB. Đồ Bàn, Sài Gòn, 1971.
2. Mang
Viên Long, Tôi đến với Phật
(Tiểu luận và tạp bút), NXB. Hồng Đức, Hà Nội, 2014.
3. Mang
Viên Long, Cũng chỉ là giấc mơ
(Truyện ngắn), NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2015.
4. Mang Viên Long, Tuyển
tập
truyện
ngắn,
tập
1,
NXB. Hội nhà văn, Hà Nội, 2015.
5. Mang
Viên Long, Như
áng mây trôi (Hồi ký), NXB. Hồng Đức, Hà Nội, 2015
6.
Mang Viên Long, Tuyển
tập
truyện
ngắn,
tập
2,
NXB. Hội nhà văn, Hà Nội, 2016.
7.
Mang Viên Long, Tuyển
tập
truyện
ngắn,
tập
3, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội, 2016.
8. Mang
Viên Long, Một chữ tình để lại
(Tạp bút và truyện ngắn), NXB. Hồng Đức, Hà Nội, 2017.
9. Mang
Viên Long, Đôi bờ nhân duyên
(Truyện dài), NXB. Hội nhà văn, 2018.
10. Mang
Viên Long, Nhà có bông vạn thọ
(Truyện ngắn và tạp bút), NXB. Hội nhà văn, Hà Nội. 2018.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét